không bao giờ làm cái chuyện đó. Theo những gì tôi nghe được thì thực ra
là ngược lại kia.”
Grant phân bua, “Không. Hoàn toàn không phải chuyện ấy. Tôi đến đây
không phải phàn nàn gì cả.”
“Ồ,” bà nói. “Ừm, xin lỗi. Tôi tưởng ông định kêu ca gì.”
Chỉ cộc lốc như thế, cái kiểu bà ta xin lỗi. Chẳng có vẻ gì là hối lỗi cả.
Mà có vẻ thất vọng và bối rối.
“Vậy tốt hơn hết là ông vào nhà đi,” bà ta nói. “Gió lùa vào nhà lạnh
quá. Trông trời thế mà lại chẳng ấm.”
Thậm chí vào được đến trong nhà đối với ông đã là một cái gì giống như
chiến thắng rồi. Ông không nghĩ là sẽ khó khăn như vậy. Ông tưởng bà vợ
Aubrey là típ phụ nữ khác. Một người nội trợ bận rộn, thích thú khi có
khách bất ngờ đến nhà và hãnh diện khi được người khác tâm sự.
Bà ta dẫn ông đi qua lối và phòng khách, giải thích, “Ta sẽ ngồi trong
bếp để tôi có thể nghe được tiếng Aubrey.” Grant thoáng nhìn thấy rèm cửa
sổ phòng khách, cả hai lớp đều màu xanh dương, một lớp mỏng nhìn thấu
qua được và một lớp mềm như lụa, ghế xô pha đồng màu xanh với màn cửa
và thảm màu nhợt nhạt đến phát sợ, trong phòng có đủ loại gương soi và đồ
trang trí rực rỡ.
Fiona có một từ để gọi những loại màn cửa rủ xuống như thế này - bà
dùng từ này với vẻ giễu cợt, mặc dù mấy mợ chỉ cho bà từ này đã rất
nghiêm túc khi dùng nó. Bất cứ phòng nào được Fiona trang trí đều rất đơn
giản và sáng sủa - có lẽ bà sẽ rất sửng sốt nếu thấy quá nhiều đồ màu mè
chen chúc nhau trong một cái phòng nhỏ xíu như vậy. Ông không thể nhớ
ra cái từ đó là gì.
Ông có thể nghe tiếng ti vi vọng ra từ căn phòng cạnh bếp - chắc là
phòng đón nắng nhưng đã được kéo mành xuống để che nắng chiều.
Aubrey. Câu trả lời cho những lời cầu nguyện của Fiona ngồi chỉ cách đó
có vài mét, đang xem cái gì nghe như một trận bóng chày. Vợ lão ngó vào
thăm. Bà ta hỏi, “Ông ổn cả chứ?” và khép hờ cánh cửa phòng.