thuốc nào ra. Khi gã nằm xuống, cô áp tai vào ngực gã để nghe tiếng khò
khè. Cô đã đi tìm lọ mù tạt để làm thuốc đắp, nhưng chắc trong nhà không
còn. Cô lại xuống dưới nhà đun chút nước nóng, đựng vào trong một tô lớn.
Cô cố bắt gã áp mặt vào, phủ khăn tắm bên ngoài để gã hít được hơi nước
vào phổi. Gã chỉ nghe lời và để yên được một chốc, nhưng chắc như thế
cũng có tác dụng - gã khạc ra một đống đờm.
Gã lại hạ sốt và ngủ ngon lành hơn. Cô kéo một chiếc ghế bành tìm thấy
ở một phòng khác sang đó và ngủ trên gác, chập chờn, đôi lúc thức giấc lại
thắc mắc không biết mình đang ở đâu, rồi chợt nhớ ra mọi chuyện, đứng
dậy và đến bên giường sờ tay xem gã còn sốt không - có vẻ thân nhiệt gã đã
ổn định - và dém lại chăn. Cô thì đắp chính chiếc áo choàng dạ vĩnh cửu,
món quà của bà Willets.
Gã thức dậy. Trời đã sáng bạch. “Cô đang làm gì ở đây thế?” gã nói bằng
giọng khè khè, yếu ớt.
“Em mới đến hôm qua,” cô đáp. “Em mang đồ nội thất đến cho anh. Tàu
hàng chưa đến nơi, nhưng đang trên đường tới. Lúc em đến em thấy anh
ốm, và anh trở bệnh gần như suốt đêm. Giờ anh thấy thế nào?”
Gã nói, “Khá hơn,” và bắt đầu ho. Cô không phải đỡ gã dậy nữa, gã đang
tự ngồi rồi, nhưng cô vẫn tới bên giường và vỗ lưng cho gã. Khi hết cơn ho,
gã nói, “Cảm ơn.”
Da gã giờ đã mát như da cô rồi. Và trơn mịn, không vết sần sùi hay bệu
mỡ. Cô có thể chạm thấy xương sườn gã. Gã giờ đây giống như một cậu
trai mảnh khảnh ốm yếu. Người gã ngửi như mùi ngô.
“Anh cứ nuốt đờm,” cô nói. “Đừng làm thế, không tốt đâu. Giấy vệ sinh
đây, phải nhổ đờm ra. Cứ nuốt thế có thể bị suy thận đấy.”
“Tôi đâu biết như thế,” gã chống chế. “Cô có tìm được cà phê không?”
Máy pha cà phê đóng cặn đen sì bên trong. Cô cố rửa đi rửa lại kỹ hết
sức trước khi cho cà phê vào. Rồi cô đi tắm rửa và chải chuốt qua, vừa băn
khoăn không biết nên cho gã ăn gì. Trong kho chứa đồ ăn có một hộp bột
bánh bích quy. Thoạt tiên cô nghĩ phải dùng nước để pha, nhưng sau tìm