ngay. Rồi cô buộc người nhân viên đường sắt phải ở lại trông kiện hàng cho
đến khi xe tải đến.
Quãng sau bữa tối xe tải mới tới, rồi chủ xe cùng với con trai dỡ đồ
xuống và mang vào phòng chính trong khách sạn.
Ngày hôm sau cô xem xét kỹ xung quanh. Cô đang nung nấu một ý định.
Rồi hôm sau nữa, khi xét thấy Ken Boudreau đã có thể ngồi dậy và lắng
nghe, cô nói, “Bỏ tiền vào chỗ này như bỏ xuống giếng thôi. Thị trấn này
sắp hết đát rồi. Giờ việc cần làm là dỡ tất cả những gì có thể bán lấy tiền
mặt được, đem bán ngay. Em không nói tới đống đồ nội thất mới mang tới,
chỉ nói những thứ như bàn bi a, bếp điện. Sau đó chúng ta phải bán ngôi
nhà cho ai có thể bóc những tấm tôn bọc tường ra bán sắt vụn. Có nhiều thứ
anh tưởng không có giá trị gì nhưng có thể bán ra tiền, dù ít dù nhiều.
Rồi… Trước khi ôm cái khách sạn này, anh tính sẽ làm gì?”
Gã nói rằng gã từng có ý định đi tới vùng British Columbia, tới thành
phố Salmon Arm nơi gã có một người bạn có lần nói sẽ tìm được cho gã
việc quản lý vườn cây ăn trái. Nhưng khi đó gã không đi được, vì xe ô tô
của gã cần thay lốp mới và chỉnh sửa trước khi có thể chạy đường dài, mà
tiền gã có chỉ đủ sống qua ngày. Rồi cái khách sạn đột nhiên rơi vào tay gã.
“Vâng, như quả tạ ngàn cân ấy,” cô nói. “Đầu tư tiền mua lốp và sửa xe
còn tốt hơn là chi thêm một đồng một cắc nào vào cái nơi như giếng không
đáy này. Nên sang tới bên đó trước khi tuyết bắt đầu rơi thì tốt hơn. Và
chúng ta lại chuyển đống đồ nội thất này bằng tàu hỏa, để dùng khi đến đó.
Đống đồ đó đủ để trang bị cho một ngôi nhà.”
“Có lẽ lời hứa giúp tìm việc đó cũng không chắc chắn lắm đâu.” Cô nói,
“Em biết. Nhưng rồi mọi việc sẽ ổn thôi.”
Gã hiểu rằng cô biết thật, và mọi chuyện đã ổn, sẽ ổn. Có thể nói rằng xử
lý những trường hợp như của gã là sở trường của cô.
Không hẳn là gã sẽ vô ơn. Gã đã hiểu ra rằng cảm giác biết ơn không
phải là gánh nặng, khi nó đến tự nhiên, nhất là khi không đòi hỏi. Trong gã
bắt đầu dấy lên ý nghĩa sự hồi sinh. Đây chính là sự thay đổi ta đang cần.