- Hâm, - Phalêev xác định một cách rành rọt. – Lão này ở đâu ra vậy? –
Câu hỏi nghiêm khắc ấy nhằm vào Serbakov.
- Tôi cũng không rõ. Hình như từ xa đến.
- Mặt trông đần độn. Một lão chập mạch điển hình. Một kẻ ngoại cuộc. –
Phalêev vẫn tiếp tục.
Serbakov cảm thấy môi mình mỉm cười. Nụ cười thoáng nhẹ không chủ
định, Nó không tắt đi, cũng không cách gì dập tắt được. Mọi người quanh
bàn, cả cái bàn, cả cốc đĩa trông cứ dẹt phẳng ra như thể được dán trên mặt
giấy vậy. Bộ ria ướt nhẹp của Phalêev, cặp mắt mèo vàng khè của anh ta, tất
cả đều có thể đem cuộn lại được. Chỉ còn lại những bức tường, ánh chiều xế
bóng rọi xuống từ những ô cửa sổ cao…
- Tiện đây xin nói thêm rằng đó là người duy nhất đã khóc ngoài nghĩa
trang, - Serbakov nói. - Mặc dù các vị không trông thấy. Các vị không có
mặt ở đó. Các vị chỉ tới đây thôi.
Nghe thô lỗ quá, và anh hơi hoảng. Nhưng không để lộ ra. Với những kẻ
như Phalêev thì chỉ có thể hạ gục bằng một đòn thẳng tay…
Serbakov bỏ ra ngoài, hơi chệnh choạng, cố bước đi sao cho thật thẳng
đường. Cái hành lang dài hun hút dẫn anh đi sâu vào nơi ở của Malinin.
Những cái rương lớn, những chiếc xe đạp treo trên tường, những hốc
tường… Anh đẩy một cánh cửa gắn kính mờ, lọt vào một căn phòng hình
bán nguyệt. Ở đó có ô cửa sổ hình bán nguyệt, trần van vát đầy những vết ố
sẫm, tường dàn kín giá sách. Giữa phòng kê một cái bàn ô-van gỗ bạch
dương vùng Kareli, cạnh bàn là một cái nghế bành lưng cao bọc nhung màu
huyết dụ. Ánh sáng vàng khè của ngọn đèn trần trụi càng làm cho mọi vật
mờ đục, bụi bặm hơn.
Trên mặt sàn, ngay chân cửa sổ dựng ba bức sơn dầu cỡ nhỏ. Phía trước
ba bức tranh đó, Treliukin đang bò lổm ngổm.