vài bà Tham, bà Phán bắt dân, bắt người nhà kêu mình là bà lớn, nàng đã
thấy tức cười.
Ngày nay nàng chỉ còn có một chút tự hào: là trong bàn tổ tôm, người ta
gọi nàng là bà lớn một cách dõng dạc, đường hoàng, còn khi đem tiếng "bà
lớn" ấy tặng một bà Phán thì người ta rụt rè, ngượng nghịu, ấp úng, coi như
cái chức thông phán không xứng đáng với sự xưng hô kia.
Cái thích thứ ba của người làm quan, nàng cố níu lấy cho khỏi bị thất
vọng. Cái thích ấy là cái thích tiền. Nàng thấy biết bao ông quan trở nên
giàu có, ăn sung mặc sướng, con cái hiển đạt. Nàng cho ai cũng có thể như
thế được. Mà được như thế phỏng có khó gì!
Nhưng đó lại là sự thất vọng lớn nhất của nàng: An không chịu khó lấy
tiền, không thích lấy tiền, hay không biết lấy tiền như Viết thường mai
mỉa.
Không hôm nào nàng trông rõ sự thất vọng ấy bằng hôm nay, khi nghe
lời chế riễu của chồng. Rồi nhớ tới số tiền lớn bỏ ra tiêu trong gần mười
năm nay, lần đầu nàng tiếc của. Nàng không hy vọng gì vào An để được
bằng chị, bằng em nữa: "Một người bỏ đi!". Và nàng thở dài tự nhủ:
"Chẳng qua là số phận cả!". Nông nỗi này thì chỉ có một ngày một nghèo,
chứ chẳng hòng gì lấy tiền mà tậu thêm vườn, thêm ruộng, thêm nhà, thêm
cửa... Rồi lũ con lớn lên… Cho vài thằng sang Pháp là khánh kiệt gia tài".
Nàng nghĩ tới gia đình Trọng. Cái cảnh nghèo túng lại như hiện ra trước
mắt nàng với cái bàn mọt, với cái ghế ba chân, với chén nước chè mốc, với
đàn con nheo nhóc, ghẻ lở.
"Làm quan như thế thì làm quan làm gì!". Nga bất giác thốt ra lời và
văng vẳng trong đêm khuya nàng như nghe thấy câu trả lời của An: "Tương
lai của chúng ta đó!".
Sáng hôm sau Nga như đã quên hết những nỗi băn khoăn buổi tối trước.
Nàng đã trở lại với sự sống vui vẻ và vô tư lự hằng ngày? Không, nàng chỉ
giấu giếm không để chồng đoán biết rằng sự chán nản bắt đầu nhóm ở
trong lòng nàng. Ra làm quan, đó là công trình của nàng. Nay nếu chính
nàng phàn nàn cái nghề làm quan, thì An còn coi nàng ra sao?