Ở sân nhà thờ người ta đã dựng một cái rạp bằng bốn hàng cột bương,
trên che áo cót, chung quanh treo các bức trướng, các bức y môn thêu chỉ
mầu hay kim tuyến. Dưới rạp bày mấy chục bộ bàn ghế đủ các kiểu: nào
bàn vuông, bàn dài, bàn tròn, bàn mặt đá hoa, nào ghế gụ, ghế lim, ghế sơn,
ghế mây, ghế tràng kỷ. Bàn ghế ấy, ông Án đã cho đi mượn ở khắp các nhà
trong làng, và người ta sắm ra hình như mục đích cũng chỉ để cho mượn lẫn
nhau, mỗi khi có ai cần đến. Mà họ cần đến luôn: Hết ăn khao, ăn mừng,
đến ăn đám, ăn giỗ, quanh năm chẳng mấy ngày trong làng không có việc
ăn.
Kể theo lệ thường thì ngày kỵ, người ta chỉ mời người trong họ, họ nội,
họ ngoại: ai đến ăn cỗ không cần phải đem vàng hương rượu nến, chỉ việc
gửi ông trưởng vài ba hào nếu mình khá giả, hay dăm xu nếu mình nghèo
túng.
Nhưng ông án Báo không thể theo lệ thường được. Gia đình ông là một
gia đình quý phái, ông phải cư xử ra một nhà quý phái, nhất ông lại là tiên
chỉ trong làng. Ngày xưa, khi ông còn tại chức, mỗi kỳ giỗ chính, nghĩa là
ngày huý kỵ của song thân, ông vẫn gửi tiền về cho người cháu đích tôn
làm cỗ mời làng, tuy ở phủ ông cũng có cúng và mời tổng lý toàn hạt đến
dự tiệc. Người ta nói những lần giỗ ở phủ như thế, ông chẳng lỗ vốn mấy tí,
vì tổng lý đến dự tiệc thường đem theo lễ vật rất hậu. Đến nỗi nhiều bạn
đồng nghiệp của ông đã đâm ngờ và mỉa mai rằng ông đem cả cha mẹ ra
làm tiền. Về sau sợ mang tiếng ông phải cúng giấu, không dám mời ai nữa.
Bữa mời làng, lần nào ông cũng tiêu tốn từ bẩy tám chục đến một trăm,
tuy cỗ ở nhà quê chỉ cần có thịt trâu, thịt bò tái, thịt lợn luộc, giò chả và
rượu ty thực nhiều. Là vì quan viên dân làng bao giờ cũng kéo đến ăn đông
đủ, nên ít nhất phải dọn ba, bốn chục mâm, ấy là chưa kể cỗ mời họ hàng,
xóm mạc.
Ngày hôm ấy nhà ông án Báo tấp nập những người đến làm giúp. Đó là
những kẻ đi lại nhờ vả, vay mượn quanh năm. Tiếng giã giò, tiếng băm thịt,
tiếng cười nói huyên náo trong năm gian nhà ngang và dưới cái rạp nhỏ sân
sau.