Một gian gác rộng ở phố Cửa Đông, sáng sủa, sạch sẽ và giản dị. Phía
trong, kê giáp tường một cái giường ngủ gỗ lát kiểu mới. Bên cạnh, một cái
bàn ngủ và một cái tủ gương đứng cũng gỗ lát. Phía ngoài, và cách một cái
bình phong sơn là phòng khách và bàn giấy...
Tiếng hát ở thang gác. Tiếng chìa trong ổ khoá. An mặt đỏ gay, mở cửa
bước vào. Chàng vừa đi ăn về, vì ít lâu nay, An ăn tháng ở một hiệu cơm
tây. Chàng nói làm thế cho được giản tiện, nhưng kỳ thực chỉ cốt để ở một
mình không phải chung sống với vợ con.
An khoá cửa phòng, để nguyên quần áo nằm ngả lưng xuống nệm, khoan
khoái mỉm cười. Sau hơn hai năm, chàng đã đổi khác hẳn, đổi khác từ hình
dáng cho chí tâm hồn. Da dẻ chàng tuy không hồng hào, tươi thắm như
ngày còn ở nhà quê, nhưng một vài nét răn ở cặp má hơi rám làm cho
chàng thêm vẻ đài các của một bực công tử phong lưu. Đôi mắt kém sáng,
nhưng cũng kém ngây thơ, cái miệng cười kém thành thực nhưng càng tỏ ra
rằng chàng là một. người từng trải.
Vì thực ra, trong hơn hai năm, An rất từng trải mùi đời, một đời huyên
náo, liều lĩnh.
Cái quãng đời ấy lần lần hiện ra trong tâm trí An, hiện ra từng hồi, từng
đoạn.
Trước hết, An thấy rõ dần hình ảnh và thái độ của Nga. Sau khi Minh và
Bảo đi rồi, quả nhiên như An đã phỏng đoán. Nga càng trở nên lăng loàn,
quá quắt, tưởng như trong mấy ngày liền nàng cố nhịn, cố tử tế, hoà nhã, âu
yếm, nên nay nàng phải cư xử tàn tệ, hỗn xược để bù lại. Đến nỗi An vì
tính nhu nhược, không chịu nổi, không can ngăn nổi, đã toan liều tự tử cho
thoát cái đời sống trong ngục thất gia đình.
Chàng còn nhớ hôm thuê thuyền đi bắn ở ven bể. Lòng chán nản, trí mỏi
mệt, mấy lần chàng suýt nhảy phăng xuống nước, nhưng mỗi lần nhớ tới
người chở thuyền chàng lại phì cười. Rồi lẩn thẩn, chàng hỏi chuyện người
ấy cho tâm trí được khuây khoả và khỏi phải luôn luôn nghĩ đến những ý
tưởng hắc ám. Chàng có ngờ đâu chính người chở thuyền ấy đã dạy chàng
một bài học về đời, và đã định đoạt cuộc tương lai của chàng.