Paul dừng lại, nhìn vào cửa sổ một tiệm cà phê có những con chim sặc sỡ
của Nam Mỹ nhồi rơm đứng làm dáng trước các bao tải cà phê hạt để mở.
Mặt đường trải nhựa kết thúc khi phố Rue de Montorgueil nối vào phố Rue
de Petits Carreaux. Giờ thì họ đi trên những viên sỏi lát đường, nhỏ đến nỗi
trông cứ như tranh ghép.
Lão Armand giữ chúng lại khi đến ngang một tòa nhà có ba cái đầu Ai Cập
đen trổ ra phía trước. Lão trỏ vào cái ngõ hẹp vòng vèo.
“Ðây là một phần của điện Thần Diệu cổ đấy,” lão nói. “Ở Paris ngày xưa,
cánh ăn mày tụ tập hết ở đây, chả ai dám làm gì họ cả.”
Lão dẫn bọn trẻ vào một con ngõ cổ với những cửa hiệu tối tăm.
“Sao người ta lại gọi là điện Thần Diệu hả ông?” Suzy hỏi.
“Bởi vì cái cách đám ăn mày rởm ấy tối tối về đây bỏ nạng bỏ băng ra,” lão
Armand giải thích, “bắt đầu mở tiệc vui chơi. Ðó chẳng phải giống điều thần
diệu sao. Thậm chí họ còn bầu ra vua của mình nữa kia.”
Bọn trẻ thất vọng nhìn thấy lưng của một cái ga-ra to và một vài gian kho
nhỏ tối tăm nữa ở nơi vốn là cung điện của đám ăn mày.
“Cháu cá ông sẽ là vua nếu họ còn sống ở đây,” Paul nói.
Lão Armand thở dài. “Ô là la! Những ngày xưa huy hoàng,” lão nói, cứ như
chính lão đã từng sống ở đó và bây giờ hồi tưởng lại vậy.
Cả đám rời khỏi điện cùng những ký ức ngang tàng của nó. Họ đi qua lối
vào của những nhà trọ đổ nát. Ở mỗi nhà họ vẫn có thể lờ mờ nhận ra vệt
cầu thang nghiêng ngả, chỉ rộng vừa đủ một đứa bé chui lọt, uốn quanh lên
những gian sảnh tối phía trên hoặc một gian phòng trên tháp ma thuật - biết
đâu đấy? Nhìn lên một cửa sổ cao bên kia đường, họ thấy một bà già kỳ lạ
đang phơi đồ trên những sợi dây căng ngang cửa sổ. Và đồ bà ta phơi là sáu