“Tôi hiểu ý anh. Gã có thể tranh thủ lúc bấy giờ để nhét cái xác đang
nằm… đâu đó vào thùng rác.”
“Đúng, và anh sẽ không phát giác ra hành động này do những tiếng ồn anh
tao ra trong lúc lục soát thùng rác kia.”
Watkins lắc đầu.
“Rất tiếc, không thể như vậy được. Như anh thấy đấy, chỗ này đủ sáng.
Làm gì có chuyện tôi không nhìn thấy cái xác nếu nó nằm đó. Chẳng có chỗ
nào mà giấu. Thêm nữa, không hề có lấy một ô cửa sổ nhìn xuống ngõ hẻm
này. Còn một khả năng mong manh nữa là nó có thể bị bức tường đằng sau
thùng rác kia che khuất,” ông trở thùng rác bên cạnh cái thùng chứa nạn nhân
xấu số.
“Hoặc thậm chí bên trong.”
“Khả năng đó còn thấp hơn, bởi tôi chỉ xoay lưng lại chừng năm, sáu giây.
Không lâu hơn, tôi dám chắc như vậy. Anh biết rõ mang vác một cái xác chết
khó khăn như thế nào rồi đấy. Không thể nào nhét cái xác vào thùng trong
khoảng thời gian ngắn như vậy được. Đặc biệt với tình trạng của anh chàng
tội nghiệp này. Chắc chắn đó là công việc cực kỳ khó khăn.”
“Đúng,” Harvey rầu rĩ thừa nhận. “Đúng, để tôi gọi thêm chi viện.”
Watkins theo đồng nghiệp tới góc phố Bevis Marks. Những hồi còi vang
vọng của ông đã đánh thức cả khu. Một vài cánh cửa sáng lên, bên trong ô
cửa sổ tầng trệt của một ngôi nhà ở góc phố Goring nằm cách ngõ hẻm ít nhất
ba mươi thước, ông nhìn rõ hai khuôn mặt áp vào kính. Cảm thấy băn khoăn
với những biểu hiện tò mò bệnh hoạn như vậy, ông trừng mắt nhìn họ lúc
băng qua.
Được vài bước, Watkins nghe tiếng cửa sổ mở ra sau lưng mình. Ông xoay
lại, sẵn sàng nện bất cứ kẻ nào xuất hiện nhưng vẻ mặt phờ phạc của người
đàn ông ló đầu ra đã khiến ông thay đổi ý định.
“Xin lỗi ông, ông sĩ quan,” một giọng run run cất lên, “ông đã tìm thấy
anh ấy chưa?”
“Ông đang nói về ai vậy?”
“Người ở trọ chỗ chúng tôi, David Cohen. Anh ấy bị ốm nặng và…”
“Ôi dào!” Watkins xẵng giọng, vì cả tiếng qua đã rất bận rộn rồi. “Còn đi
dạo được tức là không ốm nặng quá đâu.”
“Nhưng ông không biết ư?” Người đàn ông sợ hãi. “Anh ấy biến mất khỏi