khai của ông bà.”
Mất chừng mười giây, cánh cửa bên trái ô cửa sổ mở ra. Louis Minden
mời viên cảnh sát vào một tiền sảnh nhỏ, cánh cửa kính mờ mịt hơi nước dẫn
tới một hành lang dài chìm trong bóng tối lờ mờ. Ngay bên trái là lối vào
buồng cầu thang, còn bên phải là cửa căn buồng của chủ nhà. Mụ Minden
đứng gần lối vào cầu thang, cái bóng gầy gò hiện lên trong ánh sáng lờ mờ.
Mụ ngoảnh nhìn về phía cầu thang và rầu rĩ nói:
“Tất cả khách thuê phòng của chúng tôi đều sống trên gác… Trừ anh
Cohen,” mụ nói thêm, trò một ngón tay xương xấu vào ô sáng hình chữ nhật
phía cuối hành lang.
Watkins xem xét cải lối đi hẹp kết thúc ở cửa phòng vị khách trọ đã chết.
Cánh cửa phòng mở toang, hắt thử ánh sáng ảm đạm lên hành lang lát gạch
sẫm màu bốc mùi ẩm mốc. Trời lạnh và ẩm, nhiệt độ trong nhà còn thấp hơn
bên ngoài. Chẳng hề thấy chút hơi ấm nào tỏa ra từ căn buồng của vợ chồng
Minden, nơi dường như cũng lạnh lẽo và hắc ám như chính chủ nhân của nó.
Watkins nhìn quanh.
“Ở đây không có đèn à?”
“Ờ… không,” Louis Minden yếu ớt trả lời. “Hành lang này chỉ dẫn tới
phòng anh Cohen thôi, cho nên chúng tôi thấy không cần phải… Nhưng ở
buồng cầu thang thì có đèn.”
“Phải. Chà, tôi vẫn đang nghe đây.”
“Chúng tôi ở trong phòng khách lúc nghe thấy những tiếng rên rỉ và kêu
gào vọng ra từ phòng anh Cohen. Chúng tôi đến xem có chuyện gì.”
“Lúc ấy là mấy giờ?”
“Khoảng 10 giờ 20 phút. Tôi có nhìn đồng hồ. Chúng tôi ở đúng chỗ
chúng tôi đứng lúc này, và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy cái bóng, phải là
vài cái bóng, trong phòng anh Cohen. Cửa phòng anh ta mở, ông thấy đấy.
Họ xếp hàng lần lượt, đối diện với chúng tôi, và có vẻ đang mang thứ gì đó ở
giữa. Nhưng thực lòng, điều thật sự làm chúng tôi ngạc nhiên là trang phục lạ
lùng cũng những cái mặt nạ nhợt nhạt… và những cái mũi dài ngoằng của họ.
Có một người đội mũ chóp cao, gật đầu chào khi ông ta nhìn thấy chúng tôi.
Ông có thể tới ngó phòng Cohen nếu ông muốn. Chúng tôi thì ở đây thôi.
Ông có thể kiểm tra hành lang. Ông sẽ thấy không hề có khoảng hở nào từ
đây đến phòng đó.”