khá đạt, và Naxtia đã suốt ngày lang thang khắp thành phố, nghiêng ngó
nhìn những ngôi nhà, các tác phẩm điêu khắc, len lách trong dòng xe cộ bất
tận và không ngừng kinh ngạc rằng các tài xế đã có thái độ chăm chú và tôn
trọng đến mức nào đối với người đi bộ. Mặt trời tháng 12 còn rất ấm,
nhưng bất kể nhiệt độ 17°c, nhiều phụ nữ đi trên phố với áo lông mở cúc.
Khắp nơi Naxtia bị săn đuổi bởi mùi cà phê toả ra từ vô số hiệu cafe và
quán bar nhỏ. Hai giờ đầu chị còn tìm đủ sức chống chọi, nhưng sau đó,
ngẫm nghĩ một cách tỉnh táo rằng, dù sao vẫn cần cho đôi chân nghỉ, còn
với số tiền chị có thì chẳng mua được gì nhiều, vì thế không đáng tiết kiệm,
chị đã ngừng khước từ cho bản thân sự khoan khoái và thích thú ngồi
xuống bên một chiếc bàn ngay trên đường phố.
Gần tối, bất kể có cuốn chỉ dẫn, chị vẫn lạc, đi mãi dọc bức tường đá
lặng câm và chỉ khi đến chỗ quen, chị hiểu ra, rất đơn giản là chị đã dạo
quanh Vatican.
Thứ năm, ngày 16 tháng 12, khi đi xuyên qua dãy cột quây quanh nhà
thờ Thánh Pie. Naxtia lập tức nhìn thấy mẹ mình trên quảng trường. Bà
Nadejda xinh đẹp, thanh thoát và trang nhã đến chóng mặt, đang đứng trò
chuyện sôi nổi với một người đàn ông dáng cao, tóc bạc và phút phút lại
ngoái nhìn tứ phía.
Hai mẹ con ôm hôn nhau.
— Hãy làm quen, - giáo sư Hadejda ngay đó chuyển sang tiếng Anh. -
Con gái Naxtia của tôi. Giáo sư Kiun đồng nghiệp của mẹ.
— Kiun, - ông kia giới thiệu khi bắt tay Naxtia.
“Ái chà mẹ yêu. - Naxtia thầm khâm phục. - Đã không sợ dẫn theo
tình nhân của mình. Vả lại, bà biết sợ ai đâu? Lẽ nào sợ ta? Buồn cười. Thú
vị thật, ai bố trí cuộc xem cho ai, ông ta cho mình, hay mình cho ông ta?