ngập dân nhập cư Trung Quốc. Họ nói về việc những thương nhân đổ xô
tới làm khu chợ ngập tràn những món hàng thứ phẩm, và lên án các nhà
đầu tư Trung Quốc lấy đi đất của họ. Họ bảo, Mandalay đã trở thành một
“thành phố Trung Quốc”. Ca sĩ dân ca địa phương Lin Lin đối chất vấn đề
này trong bài hát nổi tiếng của anh ta, “Cái chết của Mandalay (Death of
Mandalay)”, vốn có 100.000 lượt xem trên Youtube. “Họ là ai trong thành
phố này? / Những kẻ láng giềng đến từ phía Ðông Bắc”, anh oán thán, tay
gảy đàn guitar. “Tôi bít cả hai tai mình trong nỗi ô nhục tận cùng / Tâm
trạng rối bời trước người lạ / Cái chết của Mandalay thân thương của chúng
ta.”
Ba mươi năm trước, Mandalay trứ danh vì những tòa nhà truyền thống
bằng gỗ, những con phố nhỏ ngoằn ngoèo và những tòa tháp bằng vàng lấp
lánh. Ngày nay, sau khi Trung Quốc đầu tư vào đây được hai mươi năm,
nơi đây trông như một thành phố Trung Quốc điển hình: đường sá rộng
cùng những căn nhà bê-tông xấu xí được sắp trên một mạng lưới đơn điệu.
Những con đường một thời đậm chất văn hóa giờ đây ngập tràn xe tải bấm
còi luôn luôn và ngột ngạt khí thải. Nhưng đối với một thành phố ở đất
nước nghèo nhất Ðông Nam Á, Mandalay phồn vinh đến mức gây ngạc
nhiên: một khảo sát năm 2012 nhận thấy một hộ gia đình trung bình sở hữu
ba chiếc xe máy loại nhỏ hoặc loại thường. Hồi trước hiếm ai uống rượu
bia, còn giờ ở mỗi góc đường lại có một “quán bia”. Vào lúc tối muộn,
cánh đàn ông ngồi sụp xuống trên bàn đầy bia Myanmar và whisky Grand
Royal.
Với dân số tầm một triệu người, Madalay chỉ có quy mô bằng một
phần Yangon – nhưng khi tôi tới Mandalay, nơi đây tạo cảm giác giàu có
hơn đáng kể. Hầu hết xe cộ trên đường đều là xe mới và đường phố luôn
nhộn nhịp các hoạt động buôn bán. Sở dĩ Mandalay được thịnh vượng là vì
một lí do đơn giản: giao thương với Trung Quốc. Phải mất mười giờ lái xe
dọc theo Công lộ Miến Ðiện (Burma Road)
để tới thành phố này từ
những thị trấn biên giới Muse và Thụy Lệ, trung tâm phân phối hàng hóa
chảy qua đường biên giới. Cuộc giao thương song phương này đã vượt qua