nửa đường xuống bờ biển Việt Nam. Những hòn đảo duy nhất nằm trong
đường này là quần đảo Ðông Sa (Pratas), phía Tây Nam Ðài Loan, và quần
đảo Hoàng Sa (Việt Nam)
. Nhưng vào năm 1933, khi chính quyền Pháp
tuyên báo họ trước đó đã làm chủ quần đảo Trường Sa cách tầm 1000km về
phía Nam, chính quyền Trung Quốc đã phản ứng. “Tất cả những nhà địa lí
chuyên nghiệp của chúng tôi đều bảo rằng đảo Tri Tôn (Triton) (ở quần đảo
Hoàng Sa) là đảo cực Nam của lãnh thổ chúng tôi”, theo lời ghi của Ủy ban
Quân sự trong một báo cáo mật. “Nhưng có lẽ chúng tôi có thể tìm ra
chứng cứ nào đó cho thấy chín hòn đảo (ở quần đảo Trường Sa) là một
phần lãnh thổ của chúng tôi trong quá khứ”.
Năm đó, họ thiết lập Ủy ban
Thẩm tra Ðịa chất đất liền và Biển. Năm 1935, ủy ban đó công bố một danh
sách các hòn đảo mà Trung Quốc cho rằng có quyền sở hữu – bao gồm 96
đảo ở quần đảo Trường Sa.
Một năm sau, một trong những sáng lập viên của Hội Ðịa lí Trung
Quốc đi thêm một bước. Bạch Mi Sơ là một nhà quốc gia chủ nghĩa nhiệt
thành, người trước đây từng công bố tấm bản đồ “Trung Quốc quốc sỉ” cho
thấy phạm vi lãnh thổ Trung Quốc bị mất vào tay đế quốc châu Âu và Nhật.
Khi phân ranh giới cho vùng lãnh thổ “chính đáng” của Trung Quốc, cuốn
Trung Hoa Kiến thiết Tân đồ (New China Construction Atlas/
中華建設新
圖) đã bao gồm đường chữ U vòng quanh gần như toàn bộ Biển Ðông, đi
tận về phía Nam đến bãi cạn James. Một bản đồ tương tự, cho thấy một
đường chữ U gồm 11 đường đứt đoạn, được chính quyền Quốc dân đảng
của Trung Quốc công bố năm 1947.
Sau khi thành lập Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa năm 1949, chính phủ mới đã tiếp dụng tấm bản đồ đó, khi
ấy được vẽ lại thành chín đường đứt đoạn.
Từ lúc ấy, tấm bản đồ đó trở thành cơ sở cho tuyên xưng của Trung
Quốc về “chủ quyền” đối với khoảng 85% Biển Ðông. Vào tháng Năm
năm 2009, khi Trung Quốc nộp một tấm bản đồ cho Ủy ban Liên hợp quốc
về Ranh giới thềm lục địa (Limits of the Continental Shelf), họ đã đưa vào
“đường chín đoạn”.