việc không làm trầm trọng thêm các mối căng thẳng trên biển, để giải quyết
những tranh chấp lãnh thổ bằng phương pháp hòa bình, và để tuân theo các
nguyên tắc của luật pháp quốc tế, bao gồm UNCLOS.
thuận với Việt Nam năm 2011 để giải quyết các tranh chấp liên quan đến
biển “thông qua những cuộc đàm phán và hiệp nghị thân thiện” và thỏa
thuận với Philippines năm 2012 để rút tàu của Trung Quốc khỏi bãi cạn
Scarborough. Có thái độ hoàn toàn không tôn trọng các thỏa thuận này,
Trung Quốc chỉ đơn giản thực hiện bất kì hành động đơn phương nào mà
theo họ đánh giá sẽ tăng cường được vị thế lãnh thổ của mình. Việc từ chối
chấp thuận phán quyết của tòa án ở The Hague chỉ đơn giản là một ví dụ tồi
tệ hơn nữa của một kiểu mẫu hành động thường xuyên tái diễn. Khi đụng
đến những vấn đề an ninh và chủ quyền, Trung Quốc sẵn lòng miệt thị các
luật lệ đặt ra ở phương Tây.
Tóm lại, Bắc Kinh lựa chọn các lập luận nhằm giúp hậu thuẫn cho
những tuyên bố của mình, nhưng lại từ chối không chịu bị ràng buộc theo
các lập luận ấy. Họ khơi gợi các nguyên tắc huyễn diệu, nhưng lại trơ tráo
theo đuổi bất kì chính sách nào mà theo họ sẽ tăng cường mức ảnh hưởng
của mình. Họ khăng khăng đòi giải quyết các tranh chấp theo lối song
phương, nhưng lại với tay tìm đến Liên hợp quốc hoặc hành động độc lập
khi thấy phù hợp. Họ lên tiếng đầy trách nhiệm về chuyện giải quyết các
tranh chấp thông qua các phương pháp hòa bình, nhưng lại hành động đơn
phương một cách thiếu kiểm soát – một chiến lược mà người Việt Nam gọi
là “miệng nói và tay làm (talk and take)”.
hội Nhân dân Toàn quốc năm 2014, Vương Nghị, Bộ trưởng Ngoại giao
Trung Quốc, bày tỏ những xung động mâu thuẫn vốn đang định hình chính
sách ngoại giao của Trung Quốc. “Chúng tôi sẵn lòng lắng nghe những
tiếng nói từ các nước láng giềng và hồi đáp lại những nghi ngờ của họ về
chính sách láng giềng hòa thuận của Trung Quốc”, ông nói, một cách khá
hợp lí. “Nhưng”, ông nói tiếp, chuyển sang giọng có chút đanh thép,
“chúng tôi sẽ bảo vệ từng tấc đất vốn thuộc về chúng tôi”.