yếu trên toàn cầu, bắt nguồn từ nhận thức rằng các lợi ích an ninh của
Trung Quốc sẽ được phục vụ tốt nhất bằng cách ràng buộc các quốc gia
khác vào mối quan hệ mậu dịch và đầu tư sít sao hơn nữa. “Trung Quốc sẵn
lòng đảm nhận nhiều trách nhiệm và nghĩa vụ hơn trong khả năng và phạm
vi tài chính của mình”, văn kiện này tuyên bố bằng ngôn ngữ ngoại giao
cẩn trọng, tái đảm bảo rằng mục tiêu chính của họ là mang đến “phát triển
cộng đồng” và “thịnh vượng chung”.
Vào ngày phát hành văn kiện đó,
Dương Khiết Trì, nhà ngoại giao cao cấp nhất Trung Quốc, đã nói với các
quốc gia Ðông Nam Á rằng sáng kiến này “không hề là công cụ địa chính
trị cho bất kì quốc gia nào”
. Sau nhiều trở ngại về ngoại giao khắp thế
giới, đặc biệt là với châu Phi, Bắc Kinh ý thức trong đau khổ rằng họ không
được thế giới tin cậy.
Tuy vậy, ở quê nhà, đại tự sự ấy lại khác. Giới lãnh đạo tiếp tục lặp lại
câu chuyện rằng Trung Quốc phải đóng vai trò lớn hơn trên thế giới nhằm
tương xứng với uy lực kinh tế của họ, và rằng Trung Quốc sẽ không bị đưa
đẩy vào chuyện này chuyện kia nữa. Gần như không ai hồ nghi rằng Tập
Chủ tịch xem Vành đai và Con đường là bước đi thực tiễn hướng đến việc
hiện thực hóa mục tiêu chiến lược về sự phục hưng quốc gia – “Giấc mộng
Trung Quốc” – và do đó làm cho di sản chính trị của chính ông được yên
vững. Ông được cho là đã chia quy trình cải cách Trung Quốc thành ba thời
kì, mỗi thời kì kéo dài khoảng 30 năm. Trong thời kì đầu tiên, khởi sự bằng
việc thành lập Cộng hòa Nhân dân vào năm 1949, Mao Trạch Ðông đã
củng cố quyền lực của Ðảng Cộng sản và gia cường Trung Quốc sau nhiều
năm chịu nhục nhã ở ngoại quốc. Trong thời kì thứ nhì, từ việc khởi sự
“Cải cách và Khai phóng” năm 1978, Ðặng Tiểu Bình đã đưa Trung Quốc
vào con đường trở thành đại cường quốc kinh tế. Và ở thời kì thứ ba, khởi
sự bằng việc đăng quang của Tập ở cương vị đứng đầu đảng năm 2012,
Trung Quốc cuối cùng sẽ chiếm được vị trí chính đáng của mình ở vai trò
một cường quốc thế giới. Hồ Cẩm Ðào và Giang Trạch Dân chỉ là những
cước chú lịch sử.