không phải ít, An Xảo Nhi cũng đã ba mươi, nảy mầm xuân là chuyện rất
bình thường.
Niếp Thanh Lân không hỏi nữa, vươn tay nâng An Xảo Nhi dậy,
“Ngươi cũng mang mệnh khổ, mới theo vị Hoàng đế vô dụng ta đây, nếu
theo chủ tử có tài khác, hẳn sẽ được se một mối duyên tốt mà rời cung
hưởng phúc, vẫn hơn phí hoài thanh xuân trong cấm cung này.”
Lời này khiến An Xảo Nhi đỏ mắt, quỳ trên đất nhất quyết không chịu
đứng dậy, “Hoàng thượng, ngài nói vậy chẳng phải là muốn mỉa mai chết nô
tỳ sao? Nay ngài đang trong cảnh dầu sôi lửa lỏng, chốn thâm cung to lớn
này lại không nơi nương tựa, dù bị đánh chết nô tỳ cũng không có tâm tư
muốn rời khỏi ngài, Hoàng thượng, nô tỳ biết sai rồi!”
Sao Niếp Thanh Lân lại không biết tấm lòng trung thành của An Xảo
Nhi? Nói thêm dăm ba câu giải sầu, đoạn nhạc đệm nho nhỏ này liền bị chủ
tớ hai người bỏ qua.
An Xảo Nhi vừa dọn dẹp mớ lộn xộn trên đất vừa nhìn chủ tử nhà
mình, lòng thầm đau xót: Nếu năm đó Lệ phi nương nương không đi sai một
bước thì tốt biết bao, công chúa tài hoa phong nhã như thế, mười lăm tuổi đã
có thể tìm phò mã ban hôn, nếu tìm được nhà chồng hiền lành nề nếp, không
chừng đã có thể rời xa cơn lốc xoáy Hoàng cung, sao phải gặp tai họa như
ngày hôm nay chứ! Ôi, mình và chủ tử, số mệnh kiếp này, đều vô phận với
nhân duyên mà!
Ngày hôm sau, sau một trận tuyết trắng xóa, không khí lạnh lẽo kinh
người, Niếp Thanh Lân vốn tưởng mình không cần phải lên triều sớm, thừa
dịp vùi mình trong chăn cả buổi sáng, từ từ gặm sạch nửa đĩa mứt táo.
Nghĩ hay như thế, nhưng loan giá của viện Thái Bộc lại dừng trước cửa
điện, thái giám chuyên hầu hạ trên triều vội vã chạy tới thông báo khẩu dụ
của Thái phó, bảo tiểu Hoàng đế nhanh chuẩn bị để lên triều.
Thái phó tâm huyết dâng trào khiến tẩm cung gà bay chó sủa. Niếp
Thanh Lân vội vội vàng vàng rửa mặt, áo mũ đai lưng vừa chỉnh xong liền
lên loan giá.