tay lỏng lẻo và nhìn chằm chằm vào móng tay của người chết. Ông ta thả
cánh tay và nhìn nó rơi xuống. Ông ta lùi lại, mở túi và lấy ra một tập mẫu
D.O.A. đã in và vò đầu viết trên một mẩu giấy than.
“Gãy cổ là nguyên nhân rõ ràng gây tử vong,” ông ta vừa nói vừa viết.
“Điều đó có nghĩa là cơ thể cậu ta sẽ không có quá nhiều nước. Có nghĩa là
thi thể cậu ta bắt đầu đang cứng đờ lại rất nhanh vì ở ngoài trời. Tốt hơn hết
là đưa cậu ta ra khỏi xe trước khi nó hoàn toàn đông cứng lại. Anh sẽ không
thích làm điều đó đâu khi thi thể cậu ta trở nên như vậy.”
Ohls gật đầu. “Chết được bao lâu rồi, Doc?”
“Tôi không biết.”
Ohls nhìn ông ta một cách sắc lạnh, bỏ điếu xì gà nhỏ khỏi miệng và nhìn
nó một cách gay gắt. “Rất vui được biết anh, Doc. Một người của nhân viên
điều tra không thể đoán được trong vòng năm phút làm tôi bối rối.”
Người đàn ông nhỏ bé cười một cách chua chát, đặt tập giấy vào cặp, gài
chiếc bút chì vào áo vét. “Nếu cậu ta ăn tối đêm qua. tôi sẽ nói cho anh. Nếu
tôi biết thời gian cậu ta ăn tối. Nhưng không phải trong vòng năm phút.”
“Làm thế nào mà cậu ta lại bị vết thâm tím kia? Bị ngã ư?”
Người đàn ông nhỏ bé nhìn vết tím một lần nữa. “Tôi không nghĩ vậy, vết
đập đó là do một vật gì bị che giấu. Và nó đã bị chảy máu dưới da khi cậu ta
còn sống.”
“Dùi cui à?”
“Rất có thể.”
Người đàn ông nhỏ bé của M.E. gật đầu, nhấc chiếc túi trên sàn tàu lên và
đi lên bậc thang tới cầu tàu. Một chiếc xe cấp cứu đang đứng đợi ngoài mái
vòm làm bằng vữa. Ohls nhìn tôi và nói: “Đi thôi. Hầu như không đáng để
tới đây, phải không?”
Chúng tôi quay trở lại dọc cầu tàu và lên chiếc xe bốn chỗ của Ohls. Ông
vật lộn quay đầu chiếc xe trên đường cao tốc và lái xe về phía thị trấn dọc
theo con đường cao tốc ba làn xe, con đường này đã được cơn mưa rửa sạch
sẽ, chúng tôi đi qua những sườn đồi thấp nằm cuộn tròn với những dải cát
trắng vàng thành bậc thang với rêu hồng.