thể nghĩ ra một ai khác để kể. Ông gặp ông ấy tại nhà, và khi họ ngồi trên
hiên sau, Steve giải thích về lời chẩn bệnh của ông. Ông cố không để cảm
xúc lẫn vào giọng nói, nhưng ông đã thất bại, và cuối cùng, họ khóc cùng
nhau.
Sau đó, Steve đi dạo trên bãi biển, băn khoăn nên làm gì với chút ít thời
gian còn lại. Điều gì, ông tự hỏi, là quan trọng nhất với ông? Khi đi ngang
qua nhà nguyện – vào lúc đó, việc tu sửa vẫn chưa bắt đầu, những bức
tường ám khói bị nứt toác và đổ sụm – ông nhìn chằm chằm vào chỗ hở
trống trải trước đây đã lắp ô cửa sổ kính màu, nghĩ về mục sư Harris và
những buổi sáng không đếm xuể mà ông đã trải qua trong vầng hào quang
của ánh sáng khi nó trải xuyên qua ô cửa sổ. Đó là lúc ông biết ông phải
chế tạo một ô cửa khác.
Một ngày sau đó, ông gọi cho Kim. Khi ông kể cho bà tin mới, bà đã làm
rớt điện thoại, khóc vào ống nghe. Steve cảm thấy một sự căng thẳng sâu
trong cổ họng, nhưng ông không khóc cùng bà, và bằng cách nào đó ông đã
biết ông sẽ không bao giờ khóc về căn bệnh của ông nữa.
Sau đó, ông gọi cho bà lần nữa để hỏi xem liệu những đứa trẻ của ông có
thể trải qua mùa hè với ông không. Dù ý tưởng làm bà hoảng sợ, bà vẫn
ưng thuận. Với yêu cầu của ông, bà đồng ý không nói với bọn trẻ về tình
trạng của ông. Đó sẽ là một mùa hè đong đầy những lời nói dối. Nhưng ông
có gì để lựa chọn nếu ông muốn hiểu về bọn trẻ một lần nữa cơ chứ?
Vào mùa xuân, khi cây khô đơm hoa, ông bắt đầu suy gẫm thường xuyên
hơn về bản chất của Thiên Chúa. Thật quen thuộc, ông nghĩ, để suy tưởng
về những điều như vậy vào thời gian như lúc này đây. Chúa có tồn tại hay
không tồn tại; Người vĩnh cửu trên chốn Thiên Đường hay chẳng là gì hết ?
Không hiểu sao ông tìm thấy nguồn an ủi khi khuấy đảo những câu hỏi ấy
trong tâm trí; điều đó nói lên niềm khao khát sâu thẳm bên trong ông. Cuối
cùng, ông đi đến kết luận rằng, Thiên Chúa có thật, nhưng ông cũng muốn