- Họ có soát nhà không?
- Mấy bữa đầu thôi. Mấy hôm đầu họ nhờ mấy con nhỏ đi tải đạn, tải
thương. Bữa ni hết rồi. Họ cũng là người chớ chi mà sợ. Họ tử tế lắm mà.
- Bà có nói chuyện với họ không?
- Nói hoài. Có răng mô.
Người đàn bà ở với một bà già chồng gần bảy mươi tuổi và một đứa con
trai út mười bảy tuổi. Người chồng bỏ đi thời kháng chiến cũ không thấy
tin tức. Khi biết ra điều đó, tôi không còn lấy làm lạ về cảm tình của bà ta
đối với mấy anh giải phóng nữa.
Buổi tối, chúng tôi không dám ngủ trên nhà mà xuống ngủ dưới hầm đào
ở trước sân. Chú tôi, Thái và Bé vào ngủ ở nhà thờ của một dòng họ lớn
trong xóm. Nhà thờ xây kiểu xưa, đá lớn chắc chắn lắm. Tôi, và những
người đàn bà khác cùng trẻ con xuống hết dưới hầm. Chiếc hầm nhỏ quá
mà phải chứa tới hơn mười mạng người, chúng tôi không còn chỗ đặt lưng.
Khoảng gần mười giờ là đại bác từ Phú Bài bắt đầu câu vào thành phố.
Hỏa châu soi sáng rực cả bầu trời. Tiếng máy bay gần rồi xa. Không khí
báo hiệu một cuộc đụng độ lớn. Cả thành phố như đều chìm trong điềm gở
sắp bị tàn diệt. Tôi ôm chặt lấy má tôi, dựa đầu vào vai bà mà ngủ. Má tôi
không ngớt lời cầu nguyện: Cầu cho con tôi tai qua nạn khỏi. Cho con tôi
sống.
Tôi biết má tôi đang lo cho tôi nhiều nhất. Chồng con tôi ở Sài Gòn chắc
đang bấn ruột bấn gan vì tôi. Nhưng tại sao tôi tin được chồng tôi còn rỗi
rãi để lo cho tôi. Tin tức đồn đãi cả Sài Gòn và các tỉnh đã mất. Vậy chồng
con tôi đã lưu lạc tới nơi nào rồi.
Tôi muốn nói: má ơi, con sợ quá. Nhưng tôi phải tỏ ra can đảm hơn để
má tôi yên lòng đôi chút. Tôi nói: