thục lúc. Con vừa tới thấy họ đang bắc loa gọi, con lủi nhanh vào vườn Bác
Ái lủi về, may mà họ không thấy.
Tôi hỏi có ai bị thương không, Bé nói là thấy họ đông lắm, sáng thấy có
người bị thương, chừ đem đâu hết rồi. Má tôi nói liệu có di tản lên Từ Ðàm
được không thì Bé cho biết là đường sá họ gác hết rồi, góc nào cũng có
người đứng gác. Tôi hỏi đi hỏi lại là mày có thấy tận mắt không, nó bực
mình: “Thì thấy mới chạy thục mạng về đây. Ðồn vận tải thấy vắng teo như
không có người ở, tường thành gì cũng đổ nát hết...
Lúc đó khoảng mười một giờ. Chúng tôi hết đứng lại ngồi, lóng ngóng
nhìn ra đường. Lát lát má tôi sai một đứa cháu ra nhìn xem có ai đi lại
không. Nhưng đường xá vắng ngắt. Mấy lần nó định đi lần về phía nghẹo
đường xay, nhưng không đủ can đảm lê bước tới đó. Lúc này nó đã nhìn
thấy ở đó treo một lá cờ VC. Nó trở vào mặt mày rầu rỉ:
- Trời lính mà ai cũng như tui thì Huế mất là phải. Biết vậy đừng có về
cho xong. Ðã nghe lịnh cấm trại rồi mà còn về.
Bé buồn cũng phải. Ðáng nhẽ ra dù Huế còn hay mất nó cũng phải có
mặt với anh em. Nhưng ba tôi chết cuối năm, Bé được giấy phép mấy ngày
đầu năm để lo việc nhà. Lúc này, đèn đuốc trên bàn thờ ba tôi lại sáng
trưng, mỗi đứa chúng tôi đều thắp hương và cầu nguyện. Ðây là căn nhà
thờ duy nhất của dòng họ tôi mà phải suốt cả một đời lăn lộn cực khổ làm
ăn lương thiện, ba tôi mới gầy dựng nổi. Căn nhà chưa tu bổ thì ba tôi đã có
một chỗ ngồi trong căn nhà thờ này. Súng đạn đêm qua và sáng nay đã
nhân đức với căn nhà thờ của dòng họ chúng tôi ngoài mức tưởng tượng.
Rồi chúng tôi cũng còn lo ăn nữa. Bữa cơm trưa được nấu vội vàng
nhưng không có đồ ăn. Ngày cuối năm thì xong việc đám ma. Ðến ngày
mồng một gia đình tôi nguyện ăn chay để cầu nguyện cho người chết. Ðáng
nhẽ phải ăn Tết ở ngôi nhà anh Lễ tôi ở Từ Ðàm, chúng tôi, kể cả anh Lễ,
má tôi, cô em gái, mấy đứa cháu nhỏ, cùng mấy đứa em con chú đã tình