làm vừa hỏi tôi có thấy chi lạ không. Tôi nói không. Thái nói khi hồi đi vô
nhà, ngay qua cổng nhà đằng trước xây mặt ra hẻm vô nhà chúng tôi, Thái
thấy nơi nhà đằng trước có một ngôi mộ trước sân. Trên mộ có nén hương
và một nải chuối xanh. Tôi nhớ lại nhà hàng xóm đằng trước đã bị đạn và
bốc cháy ngay sáng mồng hai, có mấy người bị thương chắc một người đã
chết. Thái nói nhỏ:
- Bác gái đằng trước chết chôn ở đó. Họ đi mô hết rồi, nhà bỏ không.
- Còn mấy người bị thương nữa mà.
Thái lắc đầu nói: Em chịu. Thái cũng như tôi, làm sao biết thêm gì hơn
nữa. Chúng tôi lại lăng xăng làm hầm. Ở trước khuôn có hiệu đồ mộc, Thái
ra khiêng được mấy tấm ván khá tốt, đem vào kê hầm.
Chiếc hầm coi cũng tạm được, nó chia làm hai ngăn. Ngăn trong dành
cho má tôi và mấy chị em. Ngăn ngoài dành cho đàn ông. May thay, nhà tôi
vừa xong đám ma, có rất nhiều đèn cầy, thắp tới mấy tháng chắc cũng
không hết. Thái lại tìm ra một thùng dầu hỏa. Ba tôi dạo còn sống vẫn ưa
tích trữ đồ, ông sắp về hưu và định dùng khu vườn cùng nhà thờ họ này làm
nơi an dưỡng tuổi già.
Chiều tối hôm đó, chúng tôi ăn cơm rất ngon. Cơm gạo giã tay, ăn với
thịt kho mặn. Món ăn này do mợ Giáo đài thọ từ lúc còn ở dưới Thủy
Dương. Chúng tôi ăn thật nhiều cơm. Vì làm việc mệt và đói nữa, chắc má
tôi phải nhường mất một nửa phần của bà.
Đêm đến, trước khi gài cửa ngõ cẩn thận và chui vào hầm, dì Vạn đốt
hương trên bàn thờ ba tôi, lâm râm khấn nguyện. Rồi đi ra sân thắp hương
vái bốn phương. Cây mai nơi bể nước vẫn còn lơ thơ mấy bông, dì đem
hương cắm ở gốc cây mai đó. Chúng tôi nằm đất, lèn sát nhau mà vẫn
không đủ chỗ. Lài với Túc không chịu nằm hầm, trải chiếu nằm ngoài nhà.
Má tôi lo lắng bàn tính chuyện những ngày sắp đến. Dì Vạn càu nhàu nói,