Tôi lại nghe phía cầu Bực bị giựt mìn, xe cộ không đi lại được. Nhưng
đến xế chiều, nhiều đoàn xe Mỹ chạy lên. Rồi nhiều đoàn xe Mỹ chạy về.
Cứ mỗi đoàn xe chạy lên, họ chở theo một ít gia đình về hồi cư, đoàn xe trở
xuống họ cho thêm vài gia đình đi tản cư. Vẫn cứ cảnh người đi người về,
không ai còn biết được ở chỗ nào yên thân hơn chỗ nào nữa. Người ta cứ
chạy, còn chạy được là còn biết mình chưa chết.
Xế chiều hôm đó, Túc lên thăm. Túc cho biết là đường quốc lộ một ban
ngày yên lắm vì có Mỹ gác. Ban đêm, Mỹ rút về, Việt cộng từ trong núi
tràn ra và đi lục soát từng nhà, bắt thanh niên lên núi theo họ.
Tối hôm đó Thái bàn với tôi, ngày mai, hai chị em đi bộ về Thủy Dương
rồi mượn xe của Túc đi về Thanh Lam. Đêm đó, tôi không tài nào chợp mắt
được.
Lòng tôi nôn nao một cách khó tả. Lúc này tôi mới thấy lòng con người
ích kỷ nhỏ nhen hết sức. Giữa sự chết chóc đầy rẫy, vì một chút hy vọng
chưa đâu vào đâu, tôi đã vui sướng một mình. Má ơi, má. Nhiều lúc, giữa
tiếng đại bác câu ình ình trong đêm, tôi thoáng nghe mơ hồ như có tiếng
con trẻ, trong ký ức bật ra hay trong sự nhớ thương vọng tới.
Trận đánh đến bao giờ mới tàn đây. Và thành phố đến hôm nay nữa có
bao nhiêu xác chết. Nằm im một chỗ trong bóng tối, dưới hầm sâu, tôi
không có thể hình dung ra sự đổ nát, tang thương của thành phố. Chừng đó
tiếng súng, chừng đó đại bác, chừng đó bom cũng đã đủ rách nát cả thành
phố nhỏ bé, quê hương thân yêu của tôi rồi. Tôi ngạc nhiên khi nghĩ rằng
tại sao tất cả súng đạn, từ Mỹ, từ Nga, từ Tiệp Khắc bỗng nằm trên tay
người Bắc Việt, người Nam Việt, đổ xuống một thành phố nhỏ bé, hiền
lành như thành phố Huế. Bom đạn từ những nước nào thật xa xôi, với danh
nghĩa giúp đỡ miền Nam, viện trợ miền Bắc, bỗng dưng cùng tập trung vào
một thành phố nhỏ, banh thịt trẻ thơ, cắt lìa tay chân, mặt mũi bao người.
Hình ảnh những khúc tay khúc chân tôi nhìn thấy dọc đường. Những cảnh
ái ân vụng trộm giữa tiếng súng, trong một góc khu giáo đường trang