chúng, phần chết chóc, phần bỏ trốn, chắc cũng chẳng còn bao. Những
tiếng rú nửa đêm, những bản án, những tiếng súng giết người không lý do,
làm sao để dân chúng dám ở lại, dám tin tưởng.
Hàng ngày tôi ra đứng bên đường, hy vọng trong đám người tản cư về,
có ông Võ Thành Minh. Mới gặp ông có mấy ngày, tôi đã hết sức yêu kính
ông. Ai hèn, ai can đảm trong cơn biến loạn này đều lộ diện ra hết. Hôm
nay, nghe tin Mỹ đã tràn lên tới Từ Ðàm và hai bên đang đánh nhau, giành
từng tấc đất, chắc ông Minh không còn có thể ở yên đó mà tải thương theo
tinh thần hướng đạo của ông nữa. Không ai còn sức để sống đến hôm nay
mà chết cho súng đạn. Tôi hy vọng ông Minh sẽ về. Họ bắt ông để làm gì?
Chắc ông sẽ thoát được và tôi sẽ gặp ông trước ngày bỏ Huế. Tôi đã liên
lạc được với sở và chuẩn bị ngày lên đường vào Ðà Nẵng. Nhưng sao tôi
vẫn chưa muốn đi. Tôi chờ đợi ống khói khổng lồ vươn lên từ trong thành
nội lụn dần. Nó phải lụn dần chứ. Một người đàn bà đã dẫn một đứa nhỏ đi
trên đường quốc lộ vừa khóc vừa kể:
- Ối, bà con làng nước ơi. Nhà tui cháy, chồng tui bị bắt, rứa mà con tui
cũng lạc.
Người ta tò mò hỏi bà:
- Rứa đứa nhỏ bà dắt theo là ai? Không phải con bà hay răng?
- Con tui lạc rồi bà con ơi. Tui cầm nó nơi tay mà lôi mà chạy. Rứa mà
khi nhìn lại thì không phải, gặp thằng bé này.
Người đàn bà lại tiếp tục khóc, tiếp tục kể và lôi thằng bé chạy. Người
đàn bà gọi con, đứa nhỏ gọi cha mẹ nó. Cảnh trông thật tức cười nhưng
cũng rớt nước mắt. Trên quê hương tôi, bao nhiêu đứa trẻ, bao nhiêu bà mẹ
đã khổ như thế? Kể làm sao hết được. Một ngày nữa trôi qua, lại một ngày
nữa đến. Khu An Cựu có vẻ yên lành hơn trước. Buổi sáng, tôi đã ăn được
những bát cháo lòng heo, giò heo của những người bán hàng rong. Chúng