tôi không còn phải chui rúc dưới hầm tối suốt ngày nữa. Nhưng không khí
dường như độc địa hẳn. Mắt mọi người lúc nào cũng cay xè. Thuốc hơi cay
của quân đồng minh rải khắp nơi để bắt những giải phóng quân còn sót lại.
Ngay sau khu vườn cách nhà tôi vài căn, có một ngôi nhà bỏ không, một
chiếc hầm bỏ không, người ta cũng bơm hơi cay, xông ra một giải phóng
quân bị thương, bị đồng đội bỏ lại. Và khi lên nhìn thấy ánh sáng thì hắn
cũng vừa thở hắt ra mà chết. Ở trong hầm, dù đau đớn, hắn cũng viết nhật
ký, viết thư gửi cho mẹ và em. Ðiều đặc biệt là hắn có một lá thư nguệch
ngoạc viết phản đối chiến tranh nữa: Khi tôi chết, tôi muốn gối đầu lên đất
Bắc, dù chân tôi ở miền Nam. Tôi đã gây cảnh đổ máu ở thành phố này, tôi
phải để máu của tôi lại để hòa cùng với dòng máu oan ức của dân Huế, của
dân tộc tôi. Người lính Biệt động đọc xong mấy dòng trên, anh vội nhét lá
thư vào túi, rồi lặng lẽ bế xác tên Việt cộng, xác một người Việt Nam, ra
vườn. Anh đào một cái hố nhỏ và chôn xác người miền Bắc chết cùng với
dân Nam. Anh nhìn quanh quất, tính lui tính tới để tìm ra phương Bắc làm
chỗ gối đầu cho kẻ bạc mệnh.
Tôi muốn xin anh lính bức thư, nhưng thấy mặt anh lầm lì và vác khẩu
súng nặng nề quá, tôi lại thôi. Chỉ một lát sau, khi ra ngoài lộ, tôi trông thấy
chính anh lính đó ria một tràng súng vào một bụi cây. Không có người nào
hết, ngoài một con chó ốm. Con chó chạy ra, mắt hực lửa, miệng nó đang
tha một cục xương người. Thôi, tôi không muốn kể nữa. Người ta còn đồn
là ở trong thành nội, xác chết của dân và của Việt cộng đã chất cao. Những
người dân chạy loạn bị trúng đạn nằm chồng lên nhau. Những xác Việt
cộng nằm đầy những hố, xác ở dưới mương, bên đường lều bều như cá chết
mắc cạn.
Cũng từ hôm đó, ở phía Nam Giao, Từ Ðàm không còn ai chạy loạn về
nữa. Hình như cũng chả còn ai để mà chạy. Họ đã bỏ đi, và số còn lại thì đã
ở giữa hai lằn đạn rồi. Tôi mất luôn tin tức của ông Minh. Anh tôi thở dài
mỗi lần nghe chị em tôi nhắc nhở tới ông. Má tôi mua được ít cau trầu vẫn