Sáng hôm sau, Hà cùng với mấy cô nhỏ ở chung nhà đi xe đạp, cố tìm
đường lên Từ Ðàm. Nhưng đến xế trưa, Hà trở về, mặt mũi đầy bụi. Nó
nói: đường không thể nào đi được. Ở trên đó đang đánh nhau dữ dội lắm.
Các ngả đường lên xuống bị chận hết.
Tôi bận rộn sửa soạn để xuống Thanh Lam. Nói là sửa soạn chớ thật chả
có gì, ngoài sự bịn rịn người thân trong nhà.
Trước khi đi, tôi với Hà đi một vòng thăm xung quanh khu tôi ở. Lên nhà
chú tôi, cả nhà đã đi tỵ nạn dưới Phù Lương. Xung quanh hàng xóm trở về
thưa thớt. Những ngôi nhà bị trúng đạn càng ngày càng hư hại, hết sức tiêu
điều. Ði vòng con đường nhỏ này là ngả ra núi. Nơi đó, mộ chôn ba tôi.
Nhưng không dám đi xa hơn nữa.
Hai chị em xuống cầu An Cựu. Lính Mỹ vẫn gác đầy, chúng tôi muốn đi
xa hơn nhưng có người nói nguy hiểm lắm. Khu trường Kiểu Mẫu vẫn còn
bị ăn đạn bên kia sông bắn qua. Khi chúng tôi về tới nhà, thấy trong nhà có
người lạ. Một ông lão đang ngồi uống nước và nói chuyện với cả nhà. Ông
lão này có tới tám mươi tuổi. Má tôi giải thích là ông ở một trong các căn
nhà phía sau vườn. Con cháu đã tản cư hết, chỉ còn một mình ông ở lại
trong căn nhà đó từ ngày đầu xảy ra tiếng súng tới giờ. Tôi tò mò hỏi thăm,
nhưng hình như ông không nghe gì hết, cứ hỏi một điều ông lại nói một
chuyện khác. Một lúc sau, tôi mới biết là ông vừa lòa vừa điếc. Tôi hỏi lớn:
- Cụ ở một mình lấy chi mà ăn?
- Có chớ. Nhiều lắm. Tụi con cháu tui nó để lại bánh mì khô, bánh
chưng, gạo nì...
- Cụ không sợ súng sao?
Câu hỏi này tôi phải hỏi tới hai ba lần, và làm dấu cụ già mới hiểu: