Trong trận chiến tƣng bừng khốc liệt giữa thầm lặng cô đơn, vũ khí duy
nhất của kiếm khách chính là trí huệ. Phải dùng trí huệ để đoạn diệt mọi chƣớng
ngại. Nhƣ dùng dao bén gƣơm sắc mà chặt đứt lìa tất cả. Trong ý nghĩa biểu
tƣợng đó, các thiền sƣ mệnh danh trí huệ là huệ kiếm, huệ đao.
Kinh Duy Ma Cật dạy: “Dĩ trí huệ kiếm phá phiền não tặc.”
173
(Lấy gƣơm
trí huệ phá giặc phiền não.)
Tƣơng tự, trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính, dân gian Việt Nam có câu:
Này gƣơm trí huệ mài đây,
Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.
Đối với những hành giả trót đã chọn đời kiếm khách độc hành, mang gƣơm
cất bƣớc vào cõi tịch liêu trên dặm trƣờng thiên lý quay về nội tâm cô đơn, thì
mọi phiền não, mọi chƣớng ngại của tâm cũng chính là những nợ nần cần phải
thanh toán một lần cho sạch sẽ. Kinh cầu siêu Cao Đài có câu:
Dâng gƣơm huệ kiếm xin cầm,
Chặt lìa trái chủ đặng tầm ngôi Thiên.
Nhìn lại ảnh thiền Tâm lập, thấy rõ thanh gƣơm hãy còn nằm nguyên trong
bao, và để gác lên tấm khiên. Thanh bình thay, yên ả thay! Cuộc chiến đã tàn.
Chàng hiệp khách năm xƣa giờ đây đã rửa tay gác kiếm rồi. Tâm ấy thôi không
còn gì phong ba phiền não. Trên mặt tấm khiên, hình con rồng nhƣ nét vẽ trang
trí, mà cũng nhƣ nói xa nói gần đến thuật ngữ của thiền gia đạo Lão và hành giả
Cao Đài: hàng long phục hổ (thu phục rồng cọp).
174
Trong trận chiến riêng tƣ của từng kiếm khách với thập tam ma, bao giờ
mới có thể rửa tay gác kiếm? Câu trả lời chẳng dễ, vì thời gian không hề đƣợc
định mức ở đây.
Đức Khổng Tử phải đến bảy mƣơi tuổi mới dám bảo tâm đã định, đã lập,
bấy giờ tâm muốn sao cũng có thể chìu theo vì không còn sợ lâm vấp lỗi lầm
nữa.
175
Ngày xƣa Thiền Sƣ Linh Vân Chí Cần 靈 雲 志 勤 cũng thế. Cái tên Chí
Cần đủ nói lên quá trình ròng rã chuyên luyện, tu tập ráo riết của ngài. Thật vậy,
ngài đã làm một hành giả (mà ngài ví von là làm kiếm khách) siêng năng mài
thanh huệ kiếm (tức là công phu thiền định) suốt ba mƣơi năm đăng đẵng mới
đƣợc chứng ngộ.