Bản dịch tiếng Việt rút lại còn tám câu nhƣ sau:
Thế rồi gặp đƣợc vị chân nhân,
Đạo lớn truyền cho sáng cõi lòng.
Trƣớc thu Anh Nhi và Xá Nữ,
Sau thả Mộc Mẫu với Kim Công.
Nƣớc thận từ mi về đầu lƣỡi,
Lửa gan từ thận xuống tâm nang.
Ba nghìn công trọn lòng theo lễ,
Lên điện Minh Hoa lạy Ngọc Hoàng.
205
Bài thơ này không thể hiểu theo mặt chữ. Anh Nhi, Xá Nữ, Mộc Mẫu, Kim
Công, Minh Đƣờng, thận thủy (nƣớc thận), Hoa Trì, Trùng Lâu, can hỏa (lửa
gan), v.v... đều là thuật ngữ thiền đạo Lão mà những ai đã đọc Thƣợng Thanh
Huỳnh Đình Nội Cảnh đều gặp đi gặp lại trong ba mƣơi sáu chƣơng kinh. Đây là
một trong những bài thơ loại khẩu quyết luyện kim đơn của hành giả đạo Tiên.
Anh Nhi 嬰 兒 (trẻ sơ sinh) là kết quả của luyện tinh hóa khí (ngọc dịch
hoàn đan 玉 液 還 丹) tại hạ đan điền (ở dƣới rún). Ngọc dịch là nƣớc thận, theo
nguyên khí bốc lên mà vào tim, từ tim qua trung đan điền rồi quay về hạ đan
điền. Đó là hoàn đan. Xá Nữ 姹 女 (thiếu nữ tuổi trăng tròn) ám chỉ tâm (tim).
Các đạo sĩ luyện ngoại đan dùng hống (thủy ngân, Hg) và diên (chì, Pb) làm
dƣợc liệu, gọi hống là Xá Nữ, gọi diên là Kim Công 金 公 (cha kim). Theo ngũ
hành, Kim sinh Thủy nên làm cha Thủy, vậy gọi là Kim Công.
206
Minh Đƣờng 明 堂 là một trong chín cung nằm trong đầu não. Từ giữa hai
chân mày đi vào một thốn 寸 (khoảng 3,33 cm) là Minh Đƣờng.
Phép tu Tiên phải luyện tinh hóa khí. Tinh (sperm) sinh ra từ một lỗ giữa
hai quả thận. Cái lỗ này gọi là Hoa Trì 華 池 (cái ao chứa tinh hoa của con
ngƣời).
Trùng Lâu 重 樓 là cổ họng (yết hầu). Tu Tiên có thuật nuốt nƣớc miếng
xuống Trùng Lâu.