Tôi nhìn theo bóng người phụ nữ ấy, xa xa hiện lên trước mắt tôi một
vùng sáng rực đầy đèn đuốc cùng người đi tấp nập. Nhưng không phải là
ánh sáng đỏ bập bùng ấm áp mà là thứ ánh sáng xanh u ám âm trầm.
Người ở đây thật kỳ lạ, rất nhiều người phụ nữ gùi đồ trên lưng, mặt
cúi rạp xuống đất, còn đàn ông thì đi phía trước dắt lừa hoặc la, dù là người
đang làm việc khổ sở hay người đang đi bộ bình thường, khuôn mặt họ đều
mang một vẻ tang thương. Ai cũng rầu rĩ, xanh xao. Họ đang đi về nơi đèn
đuốc lung linh kia, có vẻ đó chính là nơi họp chợ.
Không có cái vẻ huyên náo thường thấy ở những khu chợ tôi từng đi
xem, chợ phiên này vô cũng tĩnh lặng. Tôi có thể thấy người đi lại như mắc
cửi, nhưng bước chân của họ nhẹ bẫng, hành động của họ cũng từ tốn và có
vẻ không ai vội vã làm gì cả. Bán hàng mà cứ chậm chạp như vậy chắc
chắn sẽ ế, tôi tự nhủ.
Càng đến gần, càng có thể thấy rõ những sạp hàng trong các chòi lá
xếp san sát nhau, từ đó bày biện ra biết bao nhiêu loại mặt hàng. Tôi mải
nghĩ về người phụ nữ gùi đồ lúc trước, mắt tìm kiếm trong đám đông, cuối
cùng thì tôi cũng thấy được người ấy. Có vẻ đó không phải một người giàu
có gì, sạp hàng được lót bằng mấy tấm lá, bên trên đặt những búp măng tre.
Kỳ quái ở chỗ những búp măng kia đã héo tới thâm đen, thậm chí nó có thể
mủn ra như bùn khi bị động mạnh vào, nhưng người kia vẫn bày ra để bán.
Ai mà đi mua thứ ấy.
Tôi nhìn sang chỗ khác, một sạp bán đồ thủ công có vẻ khá giả, người
mua đứng chen chúc, bên trong thấy những nỏ, dao rựa, những tượng trâu
đất, lợn đất, rồi cả những giỏ, gùi để lẫn lộn. Người ta mua cái gì nhặt cái
gì, chủ sạp cũng không để ý, mặt chủ sạp lúc nào cũng buồn não nề. Rồi
khi người mua trả tiền, tôi thấy họ trao đổi bằng một thứ tiền kỳ lạ, là
những tờ giấy vàng được cắt hình tròn, ở giữa khoét một hình thoi giống
như vàng mã ở bên Tàu.