Số ý tưởng phát ra trong một đơn vị thời gian (năng suất phát ý tưởng)
của người giải thấp: có khi nghĩ cả ngày hoặc hơn mà không có ý tưởng để
thử. Đối với các bài toán lạ, ví dụ không thuộc chuyên môn của mình, người
giải có thể không đưa ra được phép thử nào. Năng suất phát ý tưởng thấp
nên quá trình giải bài toán kéo dài về mặt thời gian.
4) Các tiêu chuẩn đánh giá “đúng”, “sai” hoặc không có hoặc có thì
mang tính chủ quan và ngắn hạn.
Trong trường hợp không có các tiêu chuẩn khách quan đánh giá, người
giải có được ý tưởng nào thì quyết định thực hiện ý tưởng đó luôn để thực tế
trả lời "đúng" hay "sai", chứ không phải phát hiện "đúng", "sai" ngay ở giai
đoạn còn là ý tưởng. Do "sai" nhiều hơn "đúng", các thiệt hại về nhiều mặt
rất lớn. Có nhiều giải pháp trong ngắn hạn tưởng là đúng, dùng dài hạn mới
biết là sai. Các loại thuốc chữa bệnh cho lưu hành, thậm chí khuyến khích
dùng, sau khi phát hiện các tác hại mới ra lệnh cấm là một trong các ví dụ.
5) Thiếu cơ chế định hướng từ bài toán đến lời giải
Khi gặp bài toán, người giải thường không định hướng ngay được lời giải
bài toán nằm ở phía nào. Đây là nhược điểm cơ bản của phương pháp thử và
sai vì nó là thủ phạm chính làm nảy sinh những nhược điểm khác. Bạn đọc
thử tự lý giải thêm xem có phải như vậy không? Người viết còn quay trở lại
vấn đề này.
Ngoài các nhược điểm kể trên, còn có thể thấy các nhược điểm khác liên
quan đến quá trình giải bài toán nói chung như:
Không chủ động phát hiện, dự báo các bài toán có thể nảy sinh trong
tương lai để hoặc ngăn ngừa không cho bài toán nảy sinh, hoặc chuẩn
bị sẵn lời giải, hoặc biến bài toán thành cơ hội phát triển.
Chỉ giải bài toán khi có nhu cầu cấp bách, không giải không được, kiểu
"nước ngập cổ mới tính đường nhảy", còn bình thường thì chấp nhận,
chịu đựng.