Cảm tình (thích) đối với đối tượng hoặc hành động nào đó mà mục đích
chưa được nhận biết và hiểu một cách rõ ràng.
Mong muốn: Cá nhân ý thức được mục đích hướng đến của mình.
Quan tâm: Cá nhân hướng đến nhận thức đối tượng mà mình để ý.
Say mê: Cá nhân hướng đến một hoạt động nhất định.
Lý tưởng được hình thành trên cơ sở quan tâm và say mê. Lý tưởng là
hình ảnh được cá nhân xây dựng và muốn mình giống hình ảnh đó.
Thế giới quan là hệ thống các quan điểm, quan niệm, khái niệm về thế
giới, các quy luật của nó, về môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh.
Niềm tin là phẩm chất mang tính hệ thống, bao gồm thế giới quan, tư
duy và ý chí thể hiện trong hành động của cá nhân. Niềm tin được coi
là hình thức cao nhất xu hướng của nhân cách con người. Nói cách
khác, niềm tin là hệ thống các động cơ của nhân cách, thúc đẩy nhân
cách hành động tuân theo các quan niệm, nguyên tắc, thế giới quan của
mình.
Nếu như xu hướng nhân cách thể hiện thành các hành động: Làm những
gì, thì tính cách của nhân cách cho thấy tác phong của nhân cách: Làm
những điều đó như thế nào. Tính cách là tập hợp các đặc điểm ổn định (các
thái độ), được hình thành, thể hiện trong hoạt động và giao tiếp, tạo nên
những cung cách điển hình các hành động của nhân cách. Ví dụ, tính cẩn
thận, chịu đựng, bình thản, đãng trí... Các đặc điểm của tính cách liên quan
đến ý chí (ví dụ, tính kiên định...), xúc cảm (ví dụ, yêu đời...) và trí óc (ví
dụ, nhẹ dạ...).
Các đặc điểm của tính cách không tồn tại tách rời nhau mà quan hệ hữu
cơ với nhau tạo nên cấu trúc thống nhất của tính cách. Tính cấu trúc của tính
cách thể hiện trong sự phụ thuộc mang tính quy luật giữa các đặc điểm khác
nhau của tính cách. Ví dụ, nếu một người có tính hèn nhát, sợ sệt thì có cơ
sở để đoán rằng người đó sẽ không có những phẩm chất cần thiết để đưa ra
và thực hiện các sáng kiến (vì sợ rủi ro, sai, trả giá); sẽ thiếu tính kiên quyết,
tự chủ; sẽ thiếu tính hy sinh, hào hiệp... Đồng thời, cũng có thể đoán thêm,