tức là, bạn phát hiện các vấn đề và phải đi giải quyết chúng thì bạn mới
có được phẩm chất thứ nhất. Tương tự như vậy đối với các phẩm chất
khác của nhân cách sáng tạo. PPLSTVĐM giúp bạn giải quyết các vấn
đề, do vậy, giúp bạn có được phẩm chất tương ứng.
Chương trình PPLSTVĐM có những phần trang bị kiến thức, công cụ
tác động trực tiếp lên việc hình thành và phát triển các phẩm chất của
nhân cách sáng tạo. Ví dụ, PPLSTVĐM đòi hỏi người học phải đưa ra
giải pháp sáng tạo đạt tiêu chuẩn: Tất cả các hệ thống, kể cả môi trường
đều thắng. Công việc phát hiện các vấn đề phải dựa trên các quy luật
phát triển hệ thống, chứ không duy ý chí... Tất cả những điều này giúp
người học có được phẩm chất “Xác định mục đích xứng đáng” và “Xây
dựng kế hoạch (chương trình) phù hợp mục đích”. Phần trình bày và
luyện tập về tính ì tâm lý, tính ì hệ thống góp phần xây dựng ở người
học phẩm chất “Năng lực đương đầu với các cản trở” của nhân cách
sáng tạo...
Bạn đọc hãy chú ý tới khái niệm đổi mới trong cụm từ PPLSTVĐM
(xem mục 1.2. Một số khái niệm cơ bản và các ý nghĩa của chúng và
mục 3.2. PPLSTVĐM là gì? của quyển một “Giới thiệu: Phương pháp
luận sáng tạo và đổi mới”). Để phù hợp với đổi mới, tư duy dạy trong
môn học PPLSTVĐM là tư duy hướng tới hành động nhắm tới mục
đích đổi mới hoàn toàn: Hệ thực tế tiếp nhận giải pháp, thành phẩm
sáng tạo một cách đầy đủ, ổn định và bền vững. Việc làm này hoàn toàn
trùng với việc làm của các nhân cách sáng tạo: Vật chất hóa ý tưởng
sáng tạo và dùng trong đời sống, chứ không phải chỉ là các ý tưởng
sáng tạo trong đầu hoặc trên giấy (xem trường hợp áp dụng phương
pháp sát trùng của Semmelweis trong mục nhỏ 7.5.2. Giáo dục phát
triển nhân cách sáng tạo của quyển hai này). Nói như H.L. Bergson,
nhân cách sáng tạo cần: “Tư duy như con người hành động và hành
động như con người biết tư duy”.
Chúng ta biết rằng (xem Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và
ngược lại), nhu cầu của cá nhân là nguồn gốc sâu xa của các hành động