1. Người nói dối thỏa mãn nhu cầu đề ra (vì không chịu các hậu quả xấu
do nói dối). Do vậy, người đó cho hành động của mình là đúng, có xúc cảm
dương với nói dối và tiếp tục nói dối rất nhiều lần, trở nên “nói dối thành
thần”, không còn biết ngượng nữa.
2. Người nói dối lập tức bị mọi người phát hiện, nên nhu cầu ban đầu đề
ra không những không thỏa mãn mà còn kéo theo không thỏa mãn các nhu
cầu khác như bị mọi người lên án, không được mọi người kính trọng, thậm
chí bị gạt ra khỏi cộng đồng xã hội mà người đó muốn thuộc về. Trong
trường hợp này, người nói dối thấy hành động đó là sai và xúc cảm âm giúp
người đó ngăn ngừa những hành động nói dối trong tương lai.
3. Người nói dối thỏa mãn nhu cầu đề ra của mình trong một khoảng thời
gian tương đối dài. Sau nhiều lần nói dối thành công, người đó mới bị phát
hiện và lãnh những hệ quả xấu như ở trường hợp hai. Trong trường hợp này,
tùy từng cá nhân, cách và mức độ đối xử của khách thể và môi trường,
người nói dối có thể nhận ra mình sai để thay đổi; có thể tiếp tục cho mình
đúng nên vẫn tiếp tục nói dối. Nói cách khác, xúc cảm dương và âm cùng
tồn tại, đấu tranh với nhau và có thể cho các kết quả khác nhau, tùy theo cái
nào mạnh hơn.
Trong ba trường hợp nói trên, ở trường hợp thứ nhất, nếu xúc cảm dương
với nói dối đủ lâu và cường độ đủ mạnh để lập thành “đường mòn” trong
não, thói quen tự nguyện nói dối được hình thành. Ở trường hợp thứ hai,
ngược lại, có thể hình thành thói quen tự nguyện nói thật. Ở trường hợp thứ
ba, người nói dối có thể thắng được mình và có thể không, tùy hoàn cảnh cụ
thể. Trong thực tế, còn có thể nảy sinh nhiều trường hợp đa dạng hơn nữa.
Đến lượt bạn đọc thử xem xét trường hợp hành động nói dối của cá nhân
trong môi trường không lành mạnh, hiểu theo nghĩa, môi trường có nhiều
người thành công nhờ nói dối và nói dối được khuyến khích. Hoặc, trường
hợp hành động trung thực của cá nhân trong môi trường lành mạnh; không
lành mạnh...
Có những trường hợp các thói quen tự nguyện xuất phát không phải từ
“sáng kiến” cá nhân (như trường hợp nói dối ở trên) mà từ sự “bắt buộc”