hiểu theo các nghĩa: Thứ nhất, với chủ thể khác, nguyên nhân có thể được
tìm ra một cách lôgích, như vậy chúng không thuộc vô thức hoàn toàn, nhận
định về vô thức là chủ quan; thứ hai, với thời gian, kiến thức nhân loại trở
nên sâu, rộng hơn, nhiều cái trước đây được coi thuộc về vô thức có thể trở
nên ý thức được.
Vùng đệm thông giữa ý thức và vô thức trong những điều kiện nhất định
nói ở trên gọi là tiềm thức (hay là tiền ý thức, dưới ý thức). Nhiều thói quen
tự nguyện, sau khi hình thành, đã chuyển từ ý thức vào tiềm thức và vô thức.
Hình 38: Ba cơ chế (ba mức) hoạt động của thế giới bên trong con người
minh họa ý thức, tiềm thức và vô thức.
Hình 38: Ba cơ chế (ba mức) hoạt động của thế giới bên trong con
người
Những ý tưởng đầu tiên về hoạt động của vô thức thuộc về Platon
(428/427 – 348/347 trước Công nguyên). Trong một cuộc đối thoại, Socrate
(469 – 399 trước Công nguyên) có kể về “con quỷ” của mình, toàn xui làm
những việc không nên làm. Do vậy, ông chỉ ra các quyết định dựa trên ý
thức. Những cố gắng nghiên cứu để hiểu hoạt động của vô thức trong tư duy
được bắt đầu từ Leibnitz (1646 – 1716) và được Kant (1724 – 1804) phát
triển tiếp. Kant liên kết hoạt động của vô thức với sáng tạo. Wundt (1832 –
1920) ví tiềm thức như một sinh vật làm việc thầm lặng cho chúng ta để cuối