chuyên môn (các hệ chuyên gia) ra quyết định và chuyển giao cho
người sử dụng.
Giao tiếp với người sử dụng bằng tiếng nói tự nhiên.
Nối mạng máy tính các loại với nhau để xử lý thông tin ở những
khoảng cách rất xa. Mạng này là một hệ thống nhất thể gồm siêu máy
tính, đóng vai trò hạt nhân và các máy tính cá nhân mạnh ở ngoại vi.
Trong thành phần của máy tính hạt nhân có những máy chuyên môn
(máy cơ sở tri thức để xử lý, lưu giữ và phân tích thông tin; máy suy
luận lôgích để biến đổi thông tin và ra quyết định) đóng vai trò “trí
tuệ” của các máy tính thế hệ năm. Nói cách khác, trí tuệ nhân tạo sẽ là
điểm khác biệt cơ bản của các máy tính thế hệ năm.
Chúng ta có thể hình dung, lúc đó máy tính sẽ hoạt động như sau:
Người sử dụng kể cho máy tính các vấn đề của mình. Máy tính nhận dạng
được tiếng nói, biến nó thành mã trung gian, từ đó phát hiện ra ý nghĩa của
vấn đề, khởi động chương trình dùng cho máy suy luận lôgích cùng với máy
cơ sở tri thức (chứa tri thức toàn nhân loại, tích lũy được cho đến nay) và
xây dựng lời giải. Tiếp theo, lời giải được giải mã để biến thành ngôn ngữ tự
nhiên của người sử dụng. Tất nhiên, các thông tin đầu vào, đầu ra còn có thể
là các hình ảnh, hình vẽ, đồ thị tùy theo ý muốn của người sử dụng.
Để đạt được mục đích đề ra, người ta phải giải quyết nhiều vấn đề rất lớn,
liên quan đến cả phần cứng và phần mềm máy tính. Ví dụ, phải làm tăng tốc
độ của máy tính cao hơn nữa, xây dựng các chương trình nhận dạng, phân
tích ngữ nghĩa, phiên dịch. Rất tiếc, tuy đạt được một số kết quả nhất định,
ba bài toán quan trọng của trí tuệ nhân tạo là nhận dạng các tiếng nói, nhận
dạng các văn bản viết tay và dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác còn
chưa giải quyết xong trên máy tính.
Sau khi lướt qua các thành tựu của máy tính nhìn theo góc độ giải quyết
vấn đề, chúng ta có nhận xét chung là máy tính mới chỉ đóng vai trò
công cụ giúp con người giải quyết vấn đề chứ chưa tự nó giải quyết vấn