đề. Nói một cách cụ thể hơn, máy tính trở thành công cụ rất đắc lực
trong hai loại trường hợp sau:
1. Các vấn đề đã có phương pháp giải hoặc lời giải do con người tìm ra.
Tuy nhiên con người không muốn thực hiện những thao tác lặp đi lặp lại,
nhàm chán hoặc do tính toán không nhanh, không chính xác bằng máy tính
nên con người giao cho máy tính làm.
2. Các vấn đề chưa có lời giải nhưng có thể mô phỏng các phương án (khả
năng) có thể có trên máy tính và giải chúng nhờ năng lực xử lý thông tin
nhanh của máy tính để tìm ra phương án lời giải trong số đó. Tuy nhiên, các
chương trình mô phỏng, liệt kê các phương án, phân tích chúng và chọn
phương án lời giải là của con người chứ không phải do máy tính nghĩ ra.
Trong cả hai loại trường hợp, phần tư duy sáng tạo đều thuộc con người.
Máy tính, trên thực tế, chỉ thực hiện các lệnh của con người.
Từ cách đây hơn 50 năm, các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực trí tuệ nhân
tạo đã có tham vọng tạo ra những máy tính có khả năng trí tuệ tương đương
với con người. Mặc dù có nhiều tiến bộ, ít ra, cho đến nay và nhiều năm
nữa, loại máy tính đó còn chưa thể ra đời. Do vậy, chúng ta càng cần phải
chú ý khai thác tốt các khả năng sẵn có của máy tính – bộ não trong mỗi
người chúng ta.
Máy tính – bộ não (xem Hình 43 và Hình 44) có phần tương tự như máy
tính điện tử (xem Hình 47), tuy nhiên, nó khác cơ bản máy tính điện tử ở
hoạt động cực kỳ phức tạp của các mạng lưới và trung tâm thần kinh, được
tổ chức một cách đặc biệt. Nhờ vậy, con người mới có các hiện tượng tâm lý
nói chung và tư duy sáng tạo nói riêng. Nếu như Chương 5: Từ nhu cầu đến
hành động và ngược lại trình bày các yếu tố tâm lý độc lập khác ảnh hưởng
lên tư duy và ngược lại thì trong mục tiếp theo đây, người viết trình bày các
hiện tượng tâm lý tham gia trực tiếp vào chính quá trình tư duy giải quyết
vấn đề và ra quyết định. Biết được các hiện tượng tâm lý đó, bạn đọc có thể
tự giúp chính mình sử dụng các mặt mạnh và hạn chế các mặt yếu của