hiệu đó có ở những giống này và không có ở những giống khác. Điều này có
nghĩa, sau khi phân chia, trong nội hàm của các khái niệm‐giống có các dấu
hiệu của khái niệm‐loài và khái niệm‐giống này có các dấu hiệu khác với
khái niệm‐giống kia. Ví dụ, nội hàm các khái niệm‐giống “tam giác nhọn”,
“tam giác vuông”, “tam giác tù” có tất cả các dấu hiệu của nội hàm khái
niệm‐loài “tam giác”. Đồng thời nội hàm khái niệm‐giống “tam giác nhọn”
có dấu hiệu tất cả ba góc đều nhọn, là dấu hiệu mà nội hàm của hai khái
niệm‐giống kia “tam giác vuông”, “tam giác tù” không có.
Đến lượt mình, các khái niệm‐giống lại có thể trở thành đối tượng bị phân
chia và... cứ như thế. Cách phân chia nhiều bậc, nhánh như vừa nêu là
trường hợp riêng của phân chia khái niệm và gọi là sự phân loại theo nghĩa
chặt chẽ nhất.
Một dạng phân chia đặc biệt là phân đôi với cơ sở phân chia cực đoan: Có
dấu hiệu đó và không có dấu hiệu đó. Ví dụ, thay vì phân chia mọi người
thành nam và nữ; hoặc người lớn và trẻ em, phân đôi phân chia mọi người
thành nam và không nam; người lớn và không người lớn. Tuy có ưu việt
trong một số trường hợp, phân đôi khái niệm là cách phân chia nghèo nàn vì
không quan tâm đến những dấu hiệu, đặc trưng cụ thể của một nửa kia của
khái niệm bị phân chia.
Nếu đem so sánh phân chia khái niệm với phép tính chia, chúng ta thấy có
sự tương tự: Khái niệm bị phân chia (khái niệm‐loài) ứng với số bị chia; cơ
sở phân chia – số chia; các bộ phận phân chia (khái niệm‐giống) – thương số
(kết quả của phép tính chia).
Phân chia khái niệm cần tuân theo các quy tắc sau:
1) Phân chia phải nhất quán theo một cơ sở.
Quy tắc này đòi hỏi, dấu hiệu hoặc tập hợp các dấu hiệu được chọn làm
cơ sở phân chia phải không được thay đổi, thay thế bằng các dấu hiệu khác
trong suốt quá trình phân chia. Ví dụ, lúc đầu khí hậu phân chia theo dấu
hiệu nhiệt độ trung bình năm, người thực hiện phân chia thu được: Khí hậu