I (Phán đoán khẳng định bộ phận), ví dụ, “Một số học sinh lớp này là học
sinh trên trung bình”.
O (Phán đoán phủ định bộ phận), ví dụ, “Một số học sinh lớp này không
là học sinh trên trung bình”.
Chúng ta có thể thấy:
- Quan hệ giữa A và I là quan hệ lệ thuộc (bao hàm). Điều này có nghĩa,
cái đã khẳng định đúng với toàn thể cũng khẳng định đúng với bộ phận. Còn
khi biết bộ phận được khẳng định đúng thì không thể kết luận toàn thể đúng
hay sai được. Còn nếu I là sai thì A cũng sai.
Nếu A “Tất cả học sinh lớp này là học sinh trên trung bình” là đúng thì I
“Một số học sinh lớp này là học sinh trên trung bình” đương nhiên là đúng.
Nếu I “Một số học sinh lớp này là học sinh trên trung bình” là đúng thì
không thể kết luận A “Tất cả học sinh lớp này là học sinh trên trung bình”
đúng hay sai.
Nếu I “Một số học sinh lớp này là học sinh trên trung bình” là sai thì A
“Tất cả học sinh lớp này là học sinh trên trung bình” là sai. Vì, “một số”
còn chưa đạt thì làm sao có thể có “tất cả”. Tóm lại, trong quan hệ A–I:
Toàn thể đúng thì bộ phận cũng đúng; nếu toàn thể sai thì bộ phận có thể sai
hoặc đúng; bộ phận sai thì toàn thể cũng sai; bộ phận đúng thì chưa đủ để
kết luận toàn thể đúng hay sai.
- Tương tự như A và I, quan hệ giữa E và O là quan hệ lệ thuộc (bao
hàm). Bạn đọc thử tự kiểm tra.
- Quan hệ giữa A và E là quan hệ đối chọi trên cho toàn thể. Trong quan
hệ đối chọi trên, nếu cái này đúng thì cái kia sai chứ không thể cùng đúng.
Nếu đi từ một cái sai thì không thể biết cái kia sai hay đúng. Chúng có thể
cùng sai.
Quả thật, nếu phán đoán A “Tất cả học sinh lớp này là học sinh trên
trung bình” là đúng thì E “Tất cả học sinh lớp này không là học sinh trên
trung bình” là sai và ngược lại, E đúng thì A sai. Còn nếu A sai hoặc E sai,