Mặt Trời và quay quanh trục của mình”. Chúng ta phải dùng các quy luật
đúng phạm vi áp dụng, có thái độ phê phán khi xem xét những đối tượng
cùng loại, bị chi phối bởi các quy luật đó, nhưng chưa được nghiên cứu. Khi
cần, chúng ta có thể có những đóng góp để làm tăng mức độ chính xác của
các quy luật đã biết.
Ngoài ra, sự phát triển tri thức của nhân loại còn cho thấy, người ta tiếp
tục quy nạp dựa trên những quy luật đã biết để có được những quy luật mới
với mức độ khái quát hóa càng ngày, càng cao. Trong đó, các quy luật triết
học được xem là những quy luật mang tính khái quát cao và chung nhất.
b) Bác bỏ phán đoán khái quát mới.
Ví dụ, từ các hiện tượng riêng lẻ: Sắt ở thể rắn, đồng ở thể rắn, nhôm ở
thể rắn; sắt, đồng, nhôm đều là kim loại. Người ta quy nạp: Tất cả kim loại
đều ở thể rắn.
Từ phán đoán khái quát “Tất cả kim loại ở thể rắn”, bằng diễn dịch,
người ta suy ra những kim loại khác, chưa nghiên cứu như kẽm, chì, thiếc ở
thể rắn và thực tế xác nhận kết luận đó. Cứ như thế, cho đến khi gặp thủy
ngân – kim loại ở thể lỏng. Thủy ngân cho thấy, kết luận khái quát nhờ quy
nạp “Tất cả kim loại ở thể rắn” là sai.
- Việc thực tiễn bác bỏ phán đoán khái quát mới (nhờ quy nạp, ví dụ, “Tất
cả kim loại ở thể rắn”) thông qua kiểm tra tính đúng đắn của phán đoán cho
hiện tượng riêng lẻ (có được nhờ diễn dịch, ví dụ, thủy ngân là kim loại
nhưng ở thể lỏng), giúp người ta thay đổi hướng quy nạp để tìm ra những
phán đoán khái quát đúng. Ví dụ, phán đoán theo hướng khác: “Tất cả kim
loại đều dẫn điện”...
Tóm lại, mối quan hệ giữa quy nạp và diễn dịch là mối quan hệ kế thừa,
tạo tiền đề, bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong quá trình nhận thức không có
điểm dừng của con người. Quy nạp cung cấp cơ sở cho diễn dịch. Diễn dịch
giúp kiểm tra tính đúng đắn của quy nạp, đặt ra bài toán cho quy nạp mới,
giúp quy nạp sau đến gần với bản chất của loại hiện tượng hơn quy nạp
trước. Trong mối quan hệ nói trên, thực tiễn đóng vai trò quyết định đối với