Martha và tôi, gắn bó với nhau suốt phần đời còn lại. Laurie rót trà, và cả ba
ngồi cùng nhau, không ai nói gì nhiều, nhưng niềm hạnh phúc cứ dâng tràn.
Tới tháng Mười, tôi lại bắt đầu băn khoăn về gã hacker. Darren và tôi bàn
nhau xem có nên xuất bản một bài báo không. “Nếu anh không nói gì đó,”
Darren nói, “sẽ lại có một gã hacker nào đó tìm cách phá hoại máy tính của
người khác.”
“Nhưng nếu tôi xuất bản, bài báo sẽ vẽ đường cho hươu chạy mất.”
Đó là thế tiến thoái lưỡng nan của các vấn đề an ninh. Nếu bạn miêu tả cách
làm một quả bom ống, thì người nào tìm được than chì và diêm tiêu sẽ có
thể trở thành kẻ khủng bố. Nhưng nếu bạn bưng bít thông tin đó lại, mọi
người sẽ không nhận thức được về mối nguy hiểm này.
Tháng Một là vừa tròn sáu tháng kể từ khi gã hacker bị bắt, và một năm rưỡi
kể từ khi chúng tôi lần đầu phát hiện ra hắn. Nhưng tôi vẫn chưa biết tên
hắn. Đến lúc xuất bản kết quả của tôi rồi.
Tôi gửi bài viết cho Communications of the Association of Computer
Machinery. Tuy tạp chí này không xuất hiện trên các sạp báo, nhưng hầu hết
các chuyên gia máy tính đều đọc nó, và nó thực sự là một tạp chí khoa học:
Mọi bài viết đều được tham chiếu, tức là sẽ có ba nhà khoa học máy tính
khác kiểm tra nội dung và đưa ra nhận xét (ẩn danh) xem có nên xuất bản
hay không.
Bài viết được dự kiến đăng tải vào số tháng Năm. Hiệp hội Cơ khí Máy tính
và Phòng Thí nghiệm Lawrence Berkeley cũng lên kế hoạch đưa ra một
thông báo chung vào ngày 1 tháng Năm.
Tháng Năm sẽ vô cùng bận rộn. Martha và tôi dự định kết hôn vào cuối
tháng. Chúng tôi đã đặt sẵn chỗ ở Vườn Hoa hồng Berkeley, may quần áo
cưới, mời bạn bè và họ hàng. Vậy là dù không cần công bố về gã hacker,
tháng này cũng đã đủ lu bu rồi.