cùng cái cảm giác sờn cũ do mặc lâu ngày, thật hợp với hình ảnh con người
ông, thậm chí như đã biến thành một phần da thịt ông.
Tuy nhiên, nếu nói về quần áo của ông, điều khiến tôi khó xử nhất là vô số
những mẩu giấy nhớ được đính khắp nơi bằng kẹp ghim trên bộ com lê.
Chúng xuất hiện ở bất cứ chỗ nào mà giáo sư có thể nghĩ ra: cổ áo, măng
sét, túi, gấu áo, cạp quần, lỗ khuy… chỉ vì những cái ghim mà lần vải của
mấy bộ com lê trở nên dúm dó, xộc xệch. Trong số những mẩu giấy đầy
chữ ấy, nhiều mảnh được xé bằng tay, nhiều mảnh đã ố vàng và sắp rách.
Tôi phải đưa chúng lại sát mắt mới đọc được những gì ghi trên đó. Tôi
đoán rằng, để bù trù cho cái trí nhớ tám mươi phút, ông đã viết lên giấy tất
cả những thứ không được phép quên, và để khỏi quên mất là đã cất chúng ở
đâu, ông đính chúng lên khắp người mình. Nhưng, chấp nhận cái bộ dạng
ấy của giáo sư như thế nào quả thực là một bài toán khó. Khó hơn hẳn với
việc trả lời cỡ giày.
- Mà thôi, cô vào nhà đi cái đã. Tôi còn phải bận việc nên không tiếp
chuyện cô được đâu, cô cứ làm những gì cần làm.
Nói rồi giáo sư mời tôi vào, và cứ thế đi luôn sang thư phòng. Mỗi lần giáo
sư chuyển động, những mảnh giấy lại cọ vào nhau phát ra tiếng kêu sột
soạt.
Bà lão ở ngôi nhà chính là một người goá phụ, và người chồng quá cố của
bà với giáo sư hình như là anh em ruột. Cha mẹ giáo sư mất sớm. Người
anh trai hơn ông một con giáp đã phải vật lộn để mở rộng xưởng dệt của
cha mẹ mới hòng có tiền chu cấp cho ông tiếp tục theo đuổi môn toán ở
trường đại học Cambridge nước Anh. Nhưng đúng vào lúc mà sau bao
khốn khó ông mới có thể tự lập, tức là được nhận vào làm việc tại viện
nghiên cứu toán học của một trường đại học với tấm bằng tiến sĩ (một tiến
sĩ đích thực) trong tay thì anh trai ông qua đời vì viêm gan cấp tính. Không
có con, bà chị dâu bèn dẹp bỏ xưởng dệt, xây một toà chung cư trên nền đất
cũ và sống bằng tiền cho thuê nhà. Thế rồi một tai nạn giao thông năm ông