Tôi bất giác chỉnh lại tay cầm ô. Sau đó nhìn đồng hồ. Mặc dầu không nhớ
chính xác, song tôi thử tính quãng thời gian từ lúc giáo sư bước vào phòng
khám cho tới lúc đi ra. Mười phút, hai mươi phút, ba mươi phút… tôi chỉ
tay đếm theo vạch số.
Thế rồi, tôi vụt chạy theo sau giáo sư. Mặc cho đôi xăng đan như sắp tuột
ra, tôi cứ bám lấy ánh lấp lánh của những mẩu giấy nhớ mà chạy. Chúng
gần như bị bóng đen của phố xá nuốt chửng khi giáo sư rẽ vào góc đường
tiếp theo.
Tôi tranh thủ phân loại đống tạp chí toán học nhân lúc giáo sư đi tắm. Mặc
dù say sưa với các đề toán có thưởng, song giáo sư không mấy coi trọng tạp
chí này, ông vứt bừa bãi mỗi nơi một quyển trong thư phòng và hầu như
chẳng động đến trang nào khác ngoài chuyên mục giải toán có thưởng. Tôi
gom chúng lại, sắp xếp theo thứ tự từ cũ đến mới, sau đó kiểm tra mục lục
để chọn riêng ra những số đăng bài chứng minh của giáo sư.
Tôi tìm thấy tên giáo sư ở nhiều số. Dòng chữ về người giành giải thưởng
được in đậm trong khung trang trí đặc biệt ở phần mục lục nên tôi có thể
nhận ra ngay. Tên giáo sư nằm đó một cách đĩnh đạc và đầy vẻ tự hào. Bài
chứng minh khi lên tạp chí tuy mất đi vẻ ấm áp của những con chữ viết tay
song lại tăng thêm phần trang trọng khiến ngay cả một người như tôi cũng
cảm thấy trong đó tính chặt chẽ của logic.
Thư phòng nóng hơn hẳn những nơi khác trong nhà phải chăng bởi bức
tường tĩnh lặng vây bọc lâu ngày? Tôi điểm lại sự việc xảy ra ở chỗ bác sĩ
nha khoa lần nữa và tính toán lại thời gian trong lúc cất số tạp chí không có
bài của giáo sư vào thùng các tông. Tôi phạm phải một sơ suất là đã không
để ý đến sự tách biệt giữa phòng chờ và phòng khám. Đáng lẽ trong bất cứ
hoàn cảnh nào khi ở cùng giáo sư, ôi cũng không được quên khoảng thời
gian tám mươi phút.