ngạo của tập luận văn vẫn không hề suy xuyển. Chẳng một sức nặng nào
của bộ bài hay mùi mẽ của những chiếc bánh quy có thể xâm hại được nó.
Ở trang đầu tiên, thứ duy nhất mà tôi hiểu được là dòng chữ “Chapter 1”.
Trong lúc lật giở những trang tiếp theo, tôi thường xuyên bắt gặp một từ mà
tôi có thể đánh vần được là Artin. Tôi nhớ lại phỏng đoán Artin mà giáo sư
đã giải thích trên đường từ hiệu cắt tóc về nhà bằng cách dùng một cành
cây khô vẽ lên mặt đất trong công viên. Cả việc giáo sư thêm vào đó phép
tính về số hoàn hảo 28 mà tôi đã nêu ra và hình ảnh những cánh hoa anh
đào rơi trên những công thức giăng đầy mặt đất cũng hiện về.
Khi ấy, một bức ảnh đen trắng bỗng rơi ra từ tập luận văn. Căn nhặt nó lên.
Hình như nó được chụp ở một triền đê nào đó. Giáo sư đang ngồi trên một
bờ dốc phủ đầy cỏ ba lá. Ông thư thái duỗi thẳng chân và nheo mắt dưới
ánh mặt trời đang rót xuống. Nom mới thật trẻ trung và đẹp trai. Dáng
người trong bộ com lê vẫn y hệt bây giờ song khác ở chỗ nó gây cho người
ta cảm giác như tài năng đang toát ra từ khắp cơ thể. Tất nhiên, chẳng có
mẩu giấy nhớ nào trên tấm com lê đó.
Và bên cạnh ông là một cô gái. Cô e thẹn ngả đầu về phía vai ông, gấu váy
hơi xòe ra và chỉ để lộ mũi giày. Không ai chạm vào ai cả, nhưng ngay đến
tôi cũng có thể nhận thấy tình ý giữa hai người. Cho dù đã nhiều năm trôi
qua tôi vẫn không thể nhận nhầm bà quả phụ ở nhà trên với ai khác được.
Ngoài tên giáo sư và “Chapter 1”, tôi còn đọc được một dòng chữ nữa. Đó
là dòng chữ nằm ở vị trí trên cùng của trang đầu tiên, tô điểm cho sự khởi
đầu của bài chứng minh. Chỉ duy nhất dòng chữ ấy được viết bằng tay thay
vì đánh máy và là tiếng Nhật.
“Tặng N làm bằng chứng cho tình yêu vĩnh cửu, điều em không được phép
quên.”