GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN - Trang 38

khăng khít giữa tồn tại và tư duy.

Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn thể hiện ở chỗ ông đấu

tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt quan niệm
về Thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho rằng
Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định, chính con người sáng tạo ra Thượng đế.
Khác với Hêghen nói đến sự tha hóa của ý niệm tuyệt đối, Phoiơbắc nói đến sự tha hóa
của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập luận rằng, bản chất tự nhiên của con
người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, nghĩa là hướng tới những cái gì đẹp nhất
trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế những cái đó con
người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng
Thượng đế. Từ đó Phoiơbắc đã đi đến phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về một vị
Thượng đế siêu nhiên, đứng ngoài, sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống con người.

Triết học của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Chẳng hạn, khi ông đòi hỏi

triết học mới - triết học nhân bản, phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời đã đứng luôn
trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và
xã hội. Con người, theo quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi xã hội,
mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoiơbắc, do đó,
cũng chứa đựng những yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng, bản tính con người
là tình yêu; tôn giáo cũng là một tình yêu. Do vậy, khi thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng
một vị thượng đế siêu nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù hợp với tình yêu
của con người.

Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc đã không

biết rút ra từ đó cái "hạt nhân hợp lý", mà đã vứt bỏ luôn cả phép biện chứng của Hêghen.

Mặc dù còn những hạn chế, triết học của Phoiơbắc vẫn có ý nghĩa to lớn trong lịch sử

triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết học Mác.
Nhận định về nền triết học cổ điển Đức

Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo ra

những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Thành quả lớn nhất của nó là những tư
tưởng biện chứng đạt tới trình độ một hệ thống lý luận - điều mà phép biện chứng thời
cổ đại Hy Lạp đã chưa có thể đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII Tây
Âu cũng không có khả năng tạo ra.

Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm, nhất là

duy tâm khách quan của Hêghen, còn chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về thực
chất không vượt qua được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII - XVIII
Tây Âu.

Triết học cổ điển Đức đã được triết học Mác kế thừa một cách có phê phán và

nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.

37

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.