lần tỉnh giấc và có cảm giác ai đó sờ soạng bên dưới chỗ cửa khoá, thì chắc
chỉ vì vốn là người đang sống yên bình nay bị ném vào một cái giường xa
lạ và ở vào trung tâm của một bí ẩn. Nhưng ông nghĩ chắc chắn là – cho
đến suốt đời ông – ông có nghe tiếng sờ soạng như vậy thật, hai, ba lần gì
đó quãng sau nửa đêm cho đến bình minh.
Mặt trời lên, ông dậy ngay đi theo Brown. Việc ông Somerton đòi hỏi dù
phức tạp cũng không phải việc khó khăn nguy hiểm, cho nên chỉ nửa giờ
đồng hồ sau khi rời quán trọ, nó đã được hoàn thành. Đó là việc gì, tôi chưa
nói ra vội.
Cuối buổi sáng, ông Somerton hầu như trở lại bình thường, đã có thể
lên đường đi Steinfeld, và tối hôm ấy, tại Coblentz hay chặng dừng chân
nào trên đường, tôi không biết chắc lắm, ông Somerton giữ lời hứa, giải
thích câu chuyện. Brown cũng ngồi nghe nhưng với hiểu biết của mình, anh
ta hiểu được đến đâu thì tôi chịu không đoán được.
Đây là câu chuyện của ông Somerton
"Hai vị chắc sơ bộ biết rằng chuyến đi này của tôi được thực hiện với mục
đích lần theo dấu vết một sự việc liên quan tới tấm kính sơn màu ở nhà thờ
nhỏ của Chúa công D. Phải, khởi điểm của toàn bộ chuyện này nằm trong
một đoạn sách cổ, xin lưu ý cho"
Đến đây ông Somerton nêu một vài cơ sở ta đã biết ở trên.
"Lần thứ hai trở lại nhà thờ nhỏ của Chúa công D." ông nói tiếp "tôi nhằm
mục đích ghi chép cặn kẽ về các hình người, các dòng chữ, các vết cắt bằng
kim cương trên kính, kể cả các dấu hiệu bất chợt lộ ra. Điểm tôi giải quyết
đầu tiên là các dòng chữ. Tôi không nghi ngờ gì về dòng chữ đầu tiên của
Job. « Có một nơi dấu váng với sự sửa đổi cố ý, chắc để nói tới kho báu,
thế là tôi tự tin tập trung vào câu thứ hai của thánh John ». Trên áo họ có
chữ không ai hiểu được. Tất nhiên bạn sẽ hỏi, có chữ ở trên chiếc áo chùng
của họ ư? Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Cả ba vị thánh đều có diềm áo rộng
màu đen lồ lộ ra khiến cho hình vẽ trên cửa sổ bị xấu đi. Phải thừa nhận tôi