hát thánh ca hoặc các đồ đạc khác, chỉ còn thấy phản chiếu trên các cột
hoặc mái nhà. Nhiều phút trôi qua, Worby xuất hiện ở cánh cửa khu đồng
ca, vẫy đèn ra hiệu cho Lake lên chỗ ông ta.
"Cứ cho là chính ông ta, không phải ai khác" Lake nghĩ khi đi lên. Nhưng
thực ra không có gì đáng lo ngại cả. Worby cho Lake xem các giấy tờ của
giáo sĩ trưởng mà ông ta vừa lấy ra ở ghế ngồi hát thánh ca của ông này, hỏi
Lake cảm tưởng ra sao. Lake phát biểu rất đáng đi xem. Họ cùng đi về phía
bàn thờ, ông bảo:
"Ông Worby chắc thường vào đây có việc vào ban đêm thành ra chẳng
cảm thấy bôn chồn nhỉ? Nhưng thỉnh thoảng ông có giật mình khi quyển
sách rơi hay cánh cửa đung đưa chẳng hạn?"
"Không, ông Lake ạ, giờ thì tôi chẳng nghĩ đến tiếng động mấy, chỉ sợ có
chỗ thoát gaz hoặc có cái ống nào từ lò sưởi vỡ ra thôi. Nhiều năm trước
vẫn có chuyện đó đấy. Này ông có nhìn thấy cái nấm mộ đơn giản ở chỗ
bàn thờ kia không nhỉ? Thế kỷ mười lăm đấy, ông có nhất trí không? Vừa
rồi nếu chưa để ý nhìn thì ông có thể quay lại nhìn qua."
Ngôi mộ nằm về phía Bắc khu đồng ca, đặt hơi chướng. Các vách ngăn
bằng đá có một mét. Hoàn toàn đơn giản, như lời Worby, nhưng cũng có
ván ô bằng đá kiểu thông thường. Một cây thập tự bằng kim loại khá to ở
hướng Bắc (ngay sát vách ngăn) – chỉ riêng cây thập tự là đáng chú ý phần
nào.
Lake nhất trí nó ở vào thời kỳ kiến trúc thẳng đứng.
"Nhưng" ông nói "trừ phi của người nào quan trọng lắm, chứ xin lỗi ông tôi
thấy chẳng có gì đáng nói."
"Vâng, tôi không thể bảo là của ai đó ghi trong lịch sử" Worby nói, mỉm
cười khô khan "ta cũng chẳng còn ghi chép nào cho biết mộ xây cho ai.
Nhưng nếu ông có thời gian độ nửa giờ nữa thì ta sẽ về nhà, ông Lake ạ tôi
kể ông nghe một câu chuyện về cái mộ đó. Bây giờ thì không được, ở đây
lạnh lắm, ta cũng không thể la cà suốt đêm."
""Dĩ nhiên là tôi rất muốn nghe."
"Được, tôi sẽ kể ông nghe. Nhưng xin hỏi ông một câu này." Ông ta nói
tiếp khi hai người đi bên cạnh nhà thờ, "Trong sách hướng dẫn du lịch của