chắn, bởi vì hình cái đầu người đặt trên cái gối tròn dài nom rõ rành rành,
tất cả phủ kín mít, người sống ai trùm kín đầu bao giờ. Chỉ là người chết
thôi, mà lại không phải là người chết, vì cựa quậy kia mà. Giá như ông
trông thấy cảnh này lúc hoàng hôn hay dưới ánh nến thì còn có thể nhầm,
đàng này giữa ban ngày ban mặt, làm gì bây giờ?
Trước hết khoá cửa lại đã. Ông rón rén lại gần cửa, nín thở, cúi xuống nghe
ngóng thì thấy như thể có tiếng thở nặng nhọc, nôm na giải thích như vậy.
Còn thì im lặng tuyệt đối. Bàn tay run rẩy của ông vừa quay chìa trong ổ
khoá thì lập tức có tiếng chân bước lò dò ra cửa.
Thomson lao vút về phòng mình như một con thỏ chạy về hang và
khoá trái cửa lại mặc dù biết là vô ích. Cái mà ông nghĩ thì cửa nào, khoá
nào nó chẳng đi qua được? Nhưng ông không còn biết nghĩ gì hơn trong
lúc này, thực tế không thấy gì xảy ra tiếp theo, một sự chờ đợi lơ lửng đến
kinh người, tiếp theo là ngờ lên ngờ xuống thật khổ sở. Dĩ nhiên ông bị hối
thúc thoát khỏi cái nhà có một "người" cùng ở như vậy ngay tức khắc.
Nhưng vừa hôm qua ông còn nói ở thêm một tuần nữa cơ mà! Thay đổi ý
định như vậy phải chăng vì ông đã nhìn vào nơi không phải việc mình?
Hơn nữa, giả sử Betts biết về "người" đó mà vẫn không rời khỏi đây,
hoặc không biết gì cả có nghĩa rằng chẳng có gì đáng sợ, hoặc chỉ biết đến
mức cứ khóa cửa cái phòng lại là đủ để khỏi lo ngại về con ma – cũng
không cần dẹp tiệm – trường hợp nào cũng tỏ ra không việc gì phải sợ hãi,
chắc chắn ông không thể gặp chuyện không hay được. Thế thì tốt nhất là cứ
ở lại.
Thế là ông ở thêm một tuần nữa, không đi qua cánh cửa đó lần nào,
mỗi lần đi trên hành lang vào một giờ vắng vẻ ông đều lắng tai nghe ngóng
nhưng không thấy tiếng động nào phát ra hết. Có lẽ các bạn tưởng
Thomson sẽ tìm cách thăm dò ông Betts, hoặc ông mục sư, hoặc người già
trong làng câu chuyện liên quan đến cái quán. Nhưng không, một khi rơi
vào hoàn cảnh kỳ lạ, những con người tự tin đâm ra trầm mặc, vả lại sắp