Sáng hôm sau hầu phòng đánh thức ông dậy, và đem nước nóng vào.
Ông bèn nhỏm dậy, cố nhớ đúng mấy từ Đan Mạch để hỏi:
"Cô mang cái áo măng tô đi chỗ khác hả? Mang đi đâu vậy?"
Cô hầu phòng thấy lạ chỉ cười và trở ra không nói lời nào.
Anderson bực mình ngồi thẳng dậy trên giường, định gọi cô ta lại thì ông
sững người ra, nhìn trân trân trước mặt.
Cái mắc áo vẫn treo trên giá đúng như lúc ông mới đến. Ông quá sốc vì xưa
nay vẫn được coi là người có những nhận xét chính xác. Làm sao mà tối
qua ông không thấy nay lại sờ sờ ra vậy?
Ánh sáng ban ngày không những làm tỏ tường cái mắc áo treo áo măng tô
mà còn làm lộ tỷ lệ thích đáng của gian phòng với ba cửa sổ làm hco người
đã chọn nó phải thoả mãn. Mặc quần áo xong ông ra cửa sổ giữa xem thời
tiết thế nào. Lại thêm một cú sốc nữa. Đêm qua nhận xét nào của ông cũng
kỳ quặc. Ông sẵn sàng thề mười lần rằng đêm qua ông hút thuốc lá ở cửa sổ
bên phải trước khi vào giường, nay thì đầu mẩu thuốc lá còn lại trên bậu
cửa sổ giữa!
Ông xuống ăn sáng. Khá muộn. nhưng số 13 còn muộn hơn: đôi bốt vẫn
để trước cửa – bốt của đàn ông, vậy số 13 là đàn ông chứ không phải đàn
bà. Ông bèn nhìn lên số của cánh cửa: số 14. Ông cứ nghĩ mình đã đi qua
hòng 13 mà không chú ý. Ba lỗi lầm ngớ ngẩn trong có 12 giờ đồng hồ là
quá nhiều cho một con người xưa nay vẫn có đầu óc chính xác và làm việc
một cách có phương pháp do đó ông quay lại xem cho chắc chắn. Bên cạnh
số 14 là 12, buồng của ông. Hoàn toàn không có số 13.
Sau ít phút nghĩ thật cẩn thận xem mình đã ăn và uống những gì hai
mười bốn giờ qua, Anderson bỏ qua vấn đề này. Nếu như thị giác cũng như
trí óc của ông kiệt quệ do sức khoẻ thì có thể xác định dễ dàng bằng nhiều
cách, còn nếu không, ông đang trải nghiệm một chuyện rất thích thú mà
những diễn biến của nó cũng đáng để dõi theo.
Suốt ngày ông tiếp tục xem xét những lá thư tôi đã tóm lược ở trên. Ông
thất vọng thấy chúng không đầy đủ. Chỉ có một lá thư nhắc đến người tên
là Mag Nicolas Francken. Đó là thư của giám mục Jorgen Friis viết cho
Rasmus Nielsen, trong đó nói: