vẻ nghi ngờ, nhưng không thấy gì hết ngoài việc nó vẫn có vẻ nhỏ đi.
Không còn vấn đề về cái áo mắc măng tô nữa vì Anderson đã cất tất cả chỗ
quần áo treo trên giá đi, cái giá thi nhét xuống gầm giường. Ông cố gắng
quên đi con số 13, ngồi xuống viết thư.
Láng giềng hai bên yên lặng. Thỉnh thoảng có tiếng mở cửa trong hành
lang, vài đôi bốt được vứt ra ngoài, có lúc một người chào hàng nào đó đi
qua ư ử hát, bên ngoài thì thỉnh thoảng tiếng xe ngựa lóc cóc trên mặt
đường lát đá, hoặc có tiếng chân bước vội bên lề đường.
Anderson viết xong bức thư, gọi Whiskysô đa rồi ra cửa sổ nghiên cứu
bức tường trống phía trước mặt và những cái bóng in trên đó.
Như ông nhớ thì phòng 14 có một luật sư ở, ông này là người điềm đạm, ít
nói, trong bữa ăn chỉ mải nhìn vào một đống giấy tờ đặt bên cạnh đĩa ăn.
Ấy thế nhưng xem ra ông ta lại có vẻ như có thói quen làm cho hả cái tính
sôi nổi yêu đời của mình khi có một mình. Tại sao ông ta lại cứ khiêu vũ
một mình kia chứ? Cái bóng in trên tường thể hiện điều đó, bóng ông ta
lướt qua lướt lại cửa sổ, tay vẫy vẫy, một ống chân khẳng khiu đá lên đá
xuống, nhanh nhẹn khác thương. Có lẽ ông ta đi chân không, sàn nhà trải
thảm dầy nên không gây tiếng độg nào. Sagofer Herr Anders Jensen,
khiêuvũ lúc mười giờ đêm trong một phòng ngủ của một khách sạn, thật là
một đề tài khá hợp cho một bức tranh lịch sử hoành tráng. Những suy nghĩ
của Anderson, giống như của Emily trong Bí mật của Udolpho, có thể được
sắp xếp thành những dòng thơ sau đây:
Khi tôi trở về khách sạn
Vào mười giờ đêm,
Hầu bàn nghĩ tôi mệt,
Tôi chẳng kể gì đến họ
Nhưng sau khi khoá cửa phòng ngủ
Và vứt đôi bốt ra ngoài
Tôi khiêu vũ cả đêm trên sàn nhà
Dẫu khách phòng bên có kêu ca
Tôi chỉ càng nhảy hăng hơn
Bởi tôi đã quen với pháp luật