cùng, nhưng người ta có cảm giác ông ta sợ một kẻ khủng bố kinh hoàng
thì đúng hơn là sợ một bà vợ gây gỗ, lăng loàn.
Tuy nhiên, chàng người Anh (ta hãy gọi chàng là Dennistoun) chẳng
mấy chốc chìm đắm trong việc ghi chép và bận rộn với chiếc máy ánh,
thỉnh thoảng lắm mới liếc nhìn người giữ nhà thờ. Mỗi lần nhìn ông ta,
chàng lại thấy ông ta ở không xa chàng là mấy, đang nép người vào sát
tường hoặc thu mình trên một chiếc ghế hoa mỹ chỗ hát kinh. Sau một lúc
thì Dennistoun đâm sốt ruột, nghi ngại mình làm ông già mất bữa cơm trưa,
hoặc giả ông ta sợ mình xoáy mất cái gậy phép bằng ngà của giám mục nhà
thờ St Bertrand này chăng, hay có thể ăn cắp mất con cá sấu nhồi bông bám
đầy bụi treo phía trên bình đựng nước thánh? Những nỗi nghi ngại này giày
vò chàng.
Cuối cùng chàng nói:
"Ông không về ăn cơm ạ? Tôi hầu như có thể hoàn thành các ghi chép này
một mình, ông cứ khoá tôi lại trong nhà thờ này cũng được. Ít nhất tôi cần
thêm hai giờ nữa, ông sẽ lạnh đấy".
"Trời ơi!" Người đàn ông bé nhỏ nói, lời đề nghị hình như đã đưa ông ta
đến chỗ sợ hãi không tả xiết "ai mà dám nghĩ đến chuyện ấy cơ chứ? Để
ông ở lại trong nhà thờ này một mình ấy ạ? Không, không, hai giờ hay ba
giờ đối với tôi cũng thế mà thôi. Tôi đã ăn sáng, tôi không lạnh đâu ạ, xin
cám ơn ông".
"Vâng, thưa ông thế thì được" và Dennistoun nói một mình "Tôi đã báo
trước, nay hậu quả thế nào thì ông chịu lấy".
Chưa hết hai giờ đồng hồ, cái ghế ngồi ở chỗ hát kinh, cây đàn organ to
tướng đã long, gãy hết cả, bình phong ngăn nơi ngồi của đội hợp xướng nhà
thờ với giám mục John de Mauléon, những tàn tích của thuỷtinh, của thảm
cũng như mọi vật trong phòng chứa các của quý đã được xem xét kỹ càng,
ông già giữ nhà thờ theo Dennistoun sát gót, thỉnh thoảng lại chạy lung
tung như bị cái gì châm đốt mỗi khi nghe thấy những tiếng động lạ phá tan