sự yên tĩnh của cả toà nhà rộng lớn trống rỗng; đôi lúc những tiếng động
này rất kỳ quặc.
"Có một lần", Dennistoun bảo tôi "Thề với anh tôi nghe thấy một giọng
cười như tiếng kim loại ré lên ở tít trên cao tháp chuông". Tôi đưa một cái
nhìn dò hỏi về phía người giữ nhà thờ. Môi ông già trắng bệch ra. "Ông ta
đấy, đấy, ông ta chứ còn ai nữa, cửa khoá rồi cơ mà".
Ông già chỉ nói thế, hai chúng tôi nhìn nhau suốt một phút ròng.
Một sự kiện nhỏ xảy ra làm Dennistoun hoang mang. Chàng đang xem xét
một bức tranh treo ở phía trên bàn thờ, một bức trong loạt tranh minh họa
những phép màu của nhà thờ St Bertrand. Bức tranh vẽ những gì chẳng ai
giải đoán được, tuy nhiên phía dưới có một câu La tinh như sau:
Qualiter S.Bertrandus liberavit hominem quem diabolus diu volebat
strangulare (Làm thế nào thánh Bertrand đã giải thoát được một người đàn
ông mà quỷ sứ tìm mãi để bóp cổ)
Dennistoun quay lại nhìn người giữ nhà thờ, mỉm cười định đưa ra nhận xét
vui đùa nào đó, nhưng chàng bối rối khi thấy ông này đang quỳ xuống nhìn
lên bức tranh với đôi mắt cầu khẩn của người hấp hối, hai tay chắp lại, hai
má tràn trề nước mắt. Dĩ nhiên Dennistoun làm như không nhìn thấy gì, tuy
nhiên chàng không khỏi nghĩ tới câu hỏi "Tại sao một bức tranh lem nhem
như thế mà ảnh hưởng mạnh đến một con người như vậy nhỉ?" Chàng hầu
như đã nắm được câu trả lời mấu chốt cho lý do của cái nhìn kỳ lạ cứ làm
chàng bồn chồn suốt cả ngày nay. Ông già là người mắc chứng độc tưởng
rồi. Nhưng ông ta độc tưởng cái gì mới được kia chứ?
Đã sắp năm giờ chiều, ngày ngắn sắp tàn, nhà thờ ngập những bóng tối,
những tiếng động kỳ lạ như tiếng bước chân bị bóp nghẹt cùng những
giọng nói xa xôi nghe thấy lúc ban ngày. Nay ánh sáng nhạt nhoà dần khiến
chúng càng rõ thêm và xuất hiện liên tục không ngớt.
Người giữ nhà thờ lần đầu tiên tỏ ra vội vã và thiếu kiên nhẫn. Ông ta
thở ra nhẹ nhõm khi máy ảnh và quyển vở ghi chép được gói ghém cất đi,
ông giục Dennistoun mau mau ra cửa phía tây của nhà thờ, dưới cái